Thời tiết giao mùa, đặc biệt là khi trời trở lạnh hoặc mưa bão, tạo điều kiện thuận lợi cho virus, vi khuẩn và muỗi phát triển mạnh. Trong giai đoạn này, hệ miễn dịch của cơ thể thường suy yếu, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh theo mùa. Theo ghi nhận của Bộ Y tế, tháng 10 vừa qua chứng kiến sự gia tăng các ca đồng nhiễm nhiều bệnh như sốt phát ban nghi sởi, sốt xuất huyết và tay chân miệng. Do đó, việc nhận biết sớm các triệu chứng của những bệnh này là rất quan trọng để có biện pháp điều trị và phòng ngừa kịp thời.
Bác sĩ chuyên khoa I Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa Hệ thống Tiêm chủng VNVC, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chủ động phòng bệnh, đặc biệt trong bối cảnh nhiều mầm bệnh truyền nhiễm đang phát triển mạnh mẽ.
**Bệnh do virus hợp bào hô hấp RSV**
Virus hợp bào hô hấp RSV là một trong những tác nhân gây bệnh đáng lưu ý. RSV lây lan qua đường hô hấp và có tốc độ lây lan nhanh gấp bốn lần so với cúm mùa. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây viêm tiểu phế quản và viêm phổi ở trẻ dưới một tuổi và người cao tuổi.

Trong một đến hai ngày đầu, triệu chứng nhiễm RSV tương tự như cảm lạnh thông thường, bao gồm nghẹt mũi, ho nhiều, khó thở, nôn sau khi ho và sốt nhẹ. Trẻ nhỏ nhiễm RSV có thể bú kém, ngủ không ngon giấc và quấy khóc. Dù bệnh nhân có đáp ứng với thuốc hạ sốt, việc thăm khám bác sĩ để xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh là rất cần thiết. Đồng thời, cần theo dõi sát các dấu hiệu bệnh trở nặng như ngủ li bì, mệt lả, da lạnh, sốt cao, môi tím tái, thở nhanh, rút lõm lồng ngực, khò khè và bỏ bú ở trẻ nhỏ để kịp thời nhập viện điều trị.
**Cúm**
Cúm khác với cảm lạnh ở chỗ bệnh nhân thường đột ngột sốt cao từ 39 đến 40 độ C, có thể kèm theo rét run, ho khan hoặc ho có đờm, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, chảy nước mũi trong, hắt hơi, đau rát họng, đau mỏi toàn thân, nhức đầu và buồn nôn. Các triệu chứng này thường kéo dài từ 2 đến 7 ngày.
Nếu không được chăm sóc đúng cách, cúm có thể trở nặng với các dấu hiệu như khó thở, đau tức ngực, tím tái và sốt cao không hạ. Trong trường hợp này, bệnh nhân cần đến bệnh viện càng sớm càng tốt và tuyệt đối không tự ý điều trị hoặc sử dụng thuốc kháng sinh, kháng virus.

**Sốt phát ban**
Sốt phát ban là tình trạng sốt kèm theo sự xuất hiện của các ban trên da. Các loại ban thường gặp bao gồm dát, sẩn, nốt, mụn nước, bóng nước hoặc mụn mủ. Ở trẻ sơ sinh, sốt phát ban thường do các tác nhân như tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn, thủy đậu, Herpes, sởi, Rubella và nhiều loại virus khác gây ra.
Đặc biệt, cần lưu ý đến sốt phát ban do sởi vì bệnh này rất dễ lây lan, đặc biệt ở trẻ nhỏ và những người có hệ miễn dịch yếu. Sởi có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như viêm thanh quản, viêm phổi, viêm não, viêm màng não, viêm loét giác mạc và tiêu chảy cấp.
Các dấu hiệu nhận biết sốt phát ban dạng sởi bao gồm sốt nhẹ đến vừa trong 3-4 ngày đầu, kèm theo chảy nước mắt, nước mũi, mắt có gỉ kèm nhèm, sưng nề mi mắt, ho và hắt hơi. Từ ngày thứ 4 đến 6 của bệnh, ban bắt đầu mọc theo thứ tự từ sau tai, lan ra mắt, xuống ngực, đến lưng và chân, kèm theo sốt cao và cơ thể mệt mỏi.
**COVID-19**
COVID-19 hiện là bệnh lưu hành hàng năm với các chủng virus liên tục biến đổi. Hầu hết người mắc COVID-19 đều trải qua các triệu chứng như ho khan hoặc ho có đờm, đau họng, nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi, sốt hoặc ớn lạnh, mệt mỏi, đau đầu, buồn nôn và nôn, tiêu chảy, rối loạn giấc ngủ và bồn chồn. Thời tiết giao mùa và chuyển lạnh tạo điều kiện thuận lợi cho virus gây bệnh COVID-19 phát triển.
**Sốt xuất huyết**
Sốt xuất huyết thường gia tăng mạnh từ tháng 6 đến tháng 11, và hiện đang trong giai đoạn cao điểm với số ca nhiễm liên tục tăng ở nhiều địa phương. Bệnh đặc trưng bởi những cơn sốt cao liên tục từ 39 đến 40 độ C trong 3 ngày đầu, kèm theo đau đầu, chán ăn, buồn nôn, đau cơ, khớp, nhức hai hốc mắt, có thể có chấm xuất huyết trên da, chảy máu chân răng và chảy máu mũi. Từ ngày thứ 4 đến 7, bệnh nhân thường hết sốt hoặc hạ sốt, tuy nhiên đây là giai đoạn nguy hiểm và dễ rơi vào sốc sốt xuất huyết.
**Các biện pháp phòng bệnh**
Do các bệnh có những triệu chứng đặc trưng riêng, tuy nhiên, không phải lúc nào các dấu hiệu này cũng rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn và dẫn đến điều trị sai cách. Bác sĩ Chính khuyến cáo mọi người nên đi khám để xác định đúng nguyên nhân gây bệnh và có hướng xử lý phù hợp.
Để chủ động phòng bệnh, mỗi người cần thực hiện các biện pháp như ăn uống đủ chất, hạn chế tắm đêm, ngủ màn kể cả ban ngày, mặc quần áo dài tay, giữ vệ sinh nhà cửa sạch sẽ và phát quang bụi rậm. Tiêm vaccine là một biện pháp phòng ngừa chủ động và hiệu quả cho cả người lớn và trẻ nhỏ.
Đối với bệnh do RSV, phụ nữ mang thai từ tuần 24 đến 36 có thể tiêm một mũi vaccine RSV của Pfizer để truyền kháng thể bảo vệ trẻ trong 6 tháng đầu đời. Vaccine này cũng có thể tiêm cho người từ 60 tuổi trở lên. Trẻ từ 1 ngày tuổi đến 24 tháng tuổi có thể tiêm kháng thể đơn dòng RSV Nirsevimab của Sanofi để tạo miễn dịch chủ động, bảo vệ liên tục trong 5-6 tháng.
Đối với bệnh cúm, có 4 loại vaccine dành cho trẻ từ 6 tháng tuổi đến người lớn. Trẻ từ 6 tháng đến dưới 9 tuổi nếu chưa từng tiêm cần tiêm hai mũi cách nhau một tháng. Từ 9 tuổi trở lên chỉ cần tiêm một mũi và nhắc lại hàng năm. Phụ nữ mang thai có thể tiêm vaccine cúm vào bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ, tốt nhất là từ tam cá nguyệt thứ hai.
Vaccine sốt xuất huyết được tiêm cho trẻ từ 4 tuổi và người lớn, gồm hai mũi cách nhau ba tháng. Phụ nữ nên hoàn thành lịch tiêm trước khi mang thai, tốt nhất là ba tháng, tối thiểu là một tháng. Tiêm đủ hai mũi vaccine giúp giảm hơn 80% nguy cơ mắc bệnh và hơn 90% nguy cơ nhập viện.
Vaccine phòng sởi có loại đơn và loại phối hợp với thủy đậu, quai bị và rubella. Tiêm đầy đủ giúp phòng bệnh hiệu quả lên đến 98%.
Admin
Nguồn: VnExpress
