CEO MB Giải Thích Nguyên Nhân Lãi Suất Tăng: Phân Tích Chi Tiết

Tại Diễn đàn Kinh tế MB Economic Insights 2025 diễn ra ngày 7/11 ở Hà Nội, các chuyên gia kinh tế đã thảo luận sâu rộng về các yếu tố tác động đến lãi suất và triển vọng kinh tế Việt Nam. Sự kiện thu hút sự tham gia của hơn 400 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cùng các nhà quản lý và chuyên gia hàng đầu.

Các chuyên gia thảo luận trong Diễn đàn Kinh tế MB Economic Insights 2025. Ảnh: Hải Long
Diễn Đàn Kinh Tế MB Economic Insights 2025: Thảo Luận Chuyên Sâu. Ảnh: Internet

Ông Phạm Như Ánh, Tổng Giám đốc MB, đã chỉ ra hai nguyên nhân chính ảnh hưởng đến biến động lãi suất. Thứ nhất, áp lực tỷ giá đã đạt đến ngưỡng giới hạn cho phép, với mục tiêu tăng trưởng tỷ giá cả năm là 3-5%, dư địa điều chỉnh còn lại rất ít. Trong bối cảnh này, việc tăng lãi suất được xem là phù hợp để giảm sức hấp dẫn của việc nắm giữ ngoại tệ, từ đó bảo vệ giá trị đồng Việt Nam.

Thứ hai, chính sách tiền tệ của Mỹ, đặc biệt là việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) duy trì lãi suất USD ở mức cao (khoảng 3,75-4%), cũng tác động đáng kể đến lãi suất trong nước. Mức lãi suất này khiến dòng vốn quốc tế ưu tiên các thị trường có lợi suất hấp dẫn hơn, làm giảm khả năng thu hút vốn vào các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.

Ông Ánh nhận định, trong bối cảnh dòng tiền toàn cầu chưa phục hồi mạnh mẽ, dư địa giảm lãi suất trong nước bị hạn chế, đòi hỏi chính sách điều hành của Việt Nam phải linh hoạt hơn để cân bằng giữa ổn định tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh rằng mặt bằng lãi suất tại Việt Nam vẫn cạnh tranh so với khu vực và thế giới, với lãi suất cho vay phục vụ sản xuất – xuất nhập khẩu phổ biến ở mức 4,5-5,5%, thấp hơn nhiều so với Mỹ (khoảng 7,5%). Điều này tạo lợi thế cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc duy trì chi phí vốn hợp lý và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

TS. Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên cao cấp Đại học Fulbright Việt Nam. Ảnh: Hải Long
TS. Nguyễn Xuân Thành (Fulbright): Chuyên Gia Kinh Tế Hàng Đầu. Ảnh: Internet

Đồng tình với quan điểm này, ông Sacha Dray, Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, cho biết đồng Việt Nam đang chịu áp lực do chênh lệch lãi suất so với các nền kinh tế lớn, dẫn đến xu hướng dòng vốn rời khỏi thị trường mới nổi. Ông đánh giá cao nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc duy trì tỷ giá trong biên độ cho phép để ổn định thị trường ngoại hối, mặc dù điều này có thể làm giảm dự trữ ngoại hối. Ông cho rằng chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn ở mức nới lỏng hợp lý, nhưng dư địa nới lỏng thêm không còn nhiều do nguy cơ lạm phát gia tăng. Ông khuyến nghị Việt Nam nên củng cố dự trữ ngoại hối và tăng cường linh hoạt tỷ giá để tạo “vùng đệm an toàn”, hấp thụ các cú sốc từ bên ngoài, tương tự như giải pháp đã áp dụng thành công trong giai đoạn căng thẳng thương mại năm 2018.

Ông Phạm Như Ánh, Tổng giám đốc MB. Ảnh: Hải Long
Ông Phạm Như Ánh: Tổng Giám Đốc MB – Lãnh Đạo Ngân Hàng. Ảnh: Internet

TS. Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên cao cấp Đại học Fulbright Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và tài khóa trong việc thu hút dòng vốn FDI. Ông cho rằng nếu Fed bắt đầu giảm lãi suất, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc điều hành tỷ giá và lãi suất trong nước, đồng thời mở ra cơ hội đón dòng tiền quốc tế quay lại Việt Nam.

Về triển vọng lãi suất, ông Phạm Như Ánh dự báo lãi suất năm 2026 có thể biến động theo chu kỳ, giảm nhẹ vào đầu năm khi thanh khoản hệ thống dồi dào, và tăng trở lại từ giữa đến cuối năm nếu tỷ giá chịu áp lực hoặc điều kiện quốc tế kém thuận lợi. Tuy nhiên, ông cho rằng mức điều chỉnh sẽ không lớn và vẫn nằm trong vùng hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô. Về dài hạn, khi Fed giảm lãi suất xuống dưới 3% và kinh tế Việt Nam phục hồi mạnh mẽ, dòng vốn quốc tế có thể quay lại với cường độ lớn hơn, tạo điều kiện để Việt Nam giảm lãi suất mạnh hơn từ nửa cuối năm 2026 đến năm 2027.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *