Tại phiên thảo luận về dự thảo Luật Dân số trước Quốc hội ngày 10/11, Giáo sư Nguyễn Thiện Nhân đã nhấn mạnh tầm quan trọng sống còn của dự luật đối với sự phát triển lâu dài của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh già hóa dân số đang trở thành một thách thức lớn.
Giáo sư Nhân đã đưa ra ví dụ điển hình về Nhật Bản, nơi tình trạng già hóa dân số đã kìm hãm tăng trưởng GDP trong suốt nửa thế kỷ qua. Theo dự báo, nếu không có sự thay đổi, dân số Nhật Bản có thể giảm xuống chỉ còn 3 triệu người trong vòng 300 năm tới.
Ông Nhân cảnh báo rằng Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ tương tự. Dự báo đến năm 2050, mức sinh thay thế của Việt Nam có thể chỉ còn 1,63 và giảm xuống 1,38 vào năm 2100, thấp hơn nhiều so với mức cần thiết để duy trì quy mô dân số. Trong khi Nhật Bản đã tận dụng được giai đoạn “dân số vàng” để thúc đẩy tăng trưởng, Việt Nam có thể gặp bất lợi khi lực lượng lao động dự kiến sẽ bắt đầu giảm sau năm 2035. “Sau thời điểm đó, năng suất lao động sẽ là động lực tăng trưởng duy nhất, bởi động lực từ số lượng lao động sẽ không còn. Thiếu hụt lao động sẽ là thách thức lớn nhất đối với sự phát triển của Việt Nam trong thế kỷ 21,” ông nhấn mạnh.
Giáo sư Nhân nhận định rằng trong thập kỷ tới, Việt Nam vẫn có cơ hội tận dụng cả hai động lực tăng trưởng: năng suất và số lượng lao động. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho giai đoạn sau năm 2035, cần có một chiến lược rõ ràng để duy trì mức sinh hợp lý. Ông cho rằng các chính sách được đề xuất trong dự thảo Luật Dân số 2025 hiện tại “chưa đủ mạnh để đảm bảo duy trì mức sinh thay thế.”

Dự thảo Luật Dân số đề xuất một số biện pháp hỗ trợ như tăng thời gian nghỉ thai sản cho phụ nữ thêm một tháng và trợ cấp 6,2 triệu đồng, tăng thời gian nghỉ cho bố thêm 5 ngày và trợ cấp 695.000 đồng, thưởng 2 triệu đồng cho người sinh con thứ hai trước 35 tuổi, hỗ trợ 2 triệu đồng cho các khu vực có mức sinh thấp, và hỗ trợ 2 triệu đồng cho phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con. Tổng cộng, một phụ nữ sinh con có thể nhận được tối đa khoảng 13 triệu đồng.
Tuy nhiên, Giáo sư Nhân cho rằng mức lương tối thiểu vùng bình quân cả nước hiện nay chỉ hơn 4 triệu đồng mỗi tháng, chỉ đủ để duy trì cuộc sống của một người lao động. Trong khi đó, chi phí nuôi một đứa trẻ từ khi sinh ra đến 18 tuổi ước tính khoảng 900 triệu đồng. Do đó, khoản hỗ trợ tối đa 13 triệu đồng chỉ tương đương 1-1,5% chi phí nuôi con, một tỷ lệ quá nhỏ để tạo động lực khuyến khích sinh con.
Từ thực tế này, ông Nhân đề xuất Nhà nước cần thay đổi quan niệm về chính sách tiền lương và khái niệm mức sinh thay thế. Ông nhấn mạnh: “Công tác dân số là vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì sự trường tồn của dân tộc. Không thể đánh đổi tăng trưởng kinh tế cao bằng việc làm giảm mức sinh.”
Giải pháp trọng tâm, theo ông Nhân, là Nhà nước cần công bố mức lương đủ sống, đảm bảo thu nhập của một người lao động đủ để nuôi một con, và thu nhập của hai người lao động đủ để nuôi hai con. Đây cần được xem là quy định bắt buộc mà các doanh nghiệp phải đảm bảo cho người lao động, với lộ trình thực hiện từ 5 đến 10 năm.
Giải trình trước Quốc hội về các ý kiến của đại biểu, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết dự án Luật Dân số đã có sự thay đổi căn bản về tư duy, chuyển từ “dân số và kế hoạch hóa gia đình” sang “dân số và phát triển”. Nội dung này được thể hiện rõ trong dự thảo, nhằm giải quyết đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế – xã hội.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan cũng thừa nhận rằng việc nâng tỷ lệ sinh thay thế và đối phó với tình trạng già hóa dân số đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn. Bộ Y tế đã nghiên cứu kỹ các ý kiến đóng góp của Giáo sư Nguyễn Thiện Nhân và kinh nghiệm quốc tế. Nhiều quốc gia như Nhật Bản và Hàn Quốc đã triển khai các gói kinh tế khổng lồ để giải quyết vấn đề này, nhưng đối với Việt Nam, đây vẫn là một bài toán đầy thách thức. “Vì vậy, chúng ta cần nỗ lực và có các giải pháp đồng bộ,” bà nhấn mạnh.
Admin
Nguồn: VnExpress
