Gần đây, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị đã ghi nhận 70 ca nhiễm vi khuẩn mycobacteria không điển hình (NTM) trên tổng số khoảng 500 ca phẫu thuật nội soi từ tháng 9 đến đầu tháng 10. Các bệnh nhân đều có chung triệu chứng sưng tấy, chảy dịch kéo dài tại vết mổ. Điều đáng chú ý là tất cả các ca này đều được thực hiện tại cùng một phòng mổ và sử dụng chung bộ dụng cụ nội soi được tiệt khuẩn bằng hóa chất.
Ngay sau khi phát hiện sự việc, bệnh viện đã tạm ngưng hoạt động phòng mổ số 2 để tiến hành khử khuẩn toàn bộ. Đồng thời, bệnh viện chuyển sang quy trình hấp tiệt khuẩn tập trung để đảm bảo an toàn. Tính đến thời điểm hiện tại, khoảng 50 bệnh nhân đang được điều trị tại Quảng Trị, số còn lại được theo dõi tại nhà hoặc chuyển lên Bệnh viện Trung ương Huế để tiếp tục điều trị.
Theo BS.CK1 Bùi Quốc Hiếu, Phó trưởng Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, Bệnh viện Da liễu TP HCM, mycobacteria không điển hình là một nhóm vi khuẩn khác biệt so với vi khuẩn gây bệnh lao (M. tuberculosis) và phong (M. leprae). Đặc tính của chúng là bền với acid và có khả năng tồn tại rộng rãi trong môi trường như nước, đất, thực phẩm, cây trồng, gia súc, động vật hoang dã và cá.
Vi khuẩn NTM chủ yếu lây nhiễm qua môi trường chứ không lây trực tiếp từ người sang người. Nhiễm trùng da thường xảy ra sau các tổn thương nhỏ như kim đâm, dằm gỗ, hoặc sau các thủ thuật y tế như phẫu thuật, tiêm chích, xăm, mesotherapy, hút mỡ, tiêm filler… Các đợt bùng phát dịch bệnh có thể liên quan đến nguồn nước bị ô nhiễm tại bệnh viện hoặc các cơ sở dịch vụ như phòng xăm, tiệm nail, chợ cá, cơ sở châm cứu.
Bác sĩ Hiếu cho biết thêm, tỷ lệ nhiễm NTM da đang có xu hướng gia tăng do sự phổ biến của các thủ thuật xâm lấn qua da và sự tiến bộ trong khả năng phát hiện bệnh. Tuy nhiên, việc chẩn đoán bệnh gặp nhiều khó khăn do biểu hiện lâm sàng đa dạng và mô bệnh học không đặc hiệu. Để xác định chính xác tác nhân gây bệnh, cần thực hiện cấy mô hoặc xét nghiệm PCR.
Những người có hệ miễn dịch suy yếu, chẳng hạn như bệnh nhân HIV, người ghép tạng hoặc đang sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, có nguy cơ cao bị nhiễm trùng lan tỏa. Các thương tổn thường biểu hiện dưới dạng nốt, áp xe, loét tại vị trí vi khuẩn xâm nhập, có thể đỏ, đau, mưng mủ hoặc tiến triển chậm thành các vết loét sâu.
Việc điều trị nhiễm khuẩn NTM là một thách thức lớn do vi khuẩn này kháng nhiều loại kháng sinh. Thời gian điều trị thường kéo dài và đôi khi cần kết hợp phẫu thuật để loại bỏ ổ nhiễm trùng. Phác đồ điều trị cần được cá nhân hóa dựa trên mức độ nghiêm trọng của bệnh, tình trạng kháng thuốc, giai đoạn bệnh, tuổi tác và tình trạng miễn dịch của bệnh nhân.
Trong bối cảnh đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra cảnh báo về nguy cơ gia tăng số ca tử vong do nhiễm khuẩn bệnh viện. Dự kiến đến năm 2050, số ca tử vong có thể lên tới gần 3,5 triệu người mỗi năm, cao gấp hơn 4 lần so với số ca tử vong do HIV/AIDS. Thống kê năm 2022 cho thấy cứ 100 bệnh nhân cấp tính thì có 7 người ở các nước thu nhập cao và 15 người ở các nước thu nhập thấp và trung bình mắc ít nhất một nhiễm khuẩn trong thời gian nằm viện. Trung bình, cứ 10 người bệnh thì có 1 người tử vong do biến chứng này.

Các bác sĩ nhấn mạnh rằng kiểm soát nhiễm khuẩn là một “chiến tuyến thầm lặng” nhưng đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo an toàn phẫu thuật. Việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình vô khuẩn, từ khử khuẩn dụng cụ, vệ sinh tay, xử lý phòng mổ đến theo dõi sau mổ, giúp ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn, đặc biệt là các chủng hiếm và kháng thuốc như NTM. Nhiễm khuẩn vết mổ là một trong những dạng nhiễm khuẩn bệnh viện phổ biến nhất, có thể kéo dài thời gian điều trị, tăng chi phí và đe dọa tính mạng của người bệnh.
Để tăng cường kiểm soát nhiễm khuẩn, một số bệnh viện đã bắt đầu ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hệ thống tiệt khuẩn dụng cụ mổ. Hệ thống này có khả năng tự động truy vết, cảnh báo và ngăn chặn việc đưa các dụng cụ không đạt chuẩn vào phòng phẫu thuật, từ đó giảm thiểu nguy cơ nhiễm khuẩn cho bệnh nhân.
Admin
Nguồn: VnExpress
