Mùa lũ năm nay ở Đồng bằng sông Cửu Long ghi nhận mực nước cao hơn so với trung bình nhiều năm, tuy nhiên vẫn chưa đạt đến đỉnh lũ của các năm 2000 và 2011.

Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, một chuyên gia độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long, cho rằng nguyên nhân chính của tình trạng lũ trung bình và thấp trong thập kỷ qua là do tác động từ hai hiện tượng thời tiết El Nino và La Nina. Trong đó, El Nino gây ra tình trạng ít mưa, còn La Nina lại mang đến lượng mưa lớn. Khi cả hai hiện tượng này không xảy ra, thời tiết ở trạng thái trung tính với lượng mưa trung bình. Biến đổi khí hậu đang làm gia tăng tính cực đoan của các hiện tượng này.
Trong những năm gần đây, thời tiết thường xuyên ở trạng thái trung tính, lượng mưa yếu hoặc chỉ ở mức trung bình, dẫn đến lượng nước từ sông Mekong đổ về đồng bằng thấp hơn.
Các đập thủy điện ở thượng nguồn, dù không tiêu thụ nước, lại gây ra sự thay đổi về thời gian dòng chảy. Vào những năm mưa ít, các đập này tăng cường tích nước, làm cho sông trở nên cạn kiệt. Lượng nước xả về chậm do phải trải qua một loạt các hồ chứa. Trong những năm mưa bình thường, các đập thủy điện tích nước để sử dụng vào mùa khô, điều này làm giảm lũ và tăng dòng chảy vào mùa khô khoảng 20-30%. Tuy nhiên, khi thời tiết trở nên cực đoan, các đập có thể xả nước khẩn cấp khi quá đầy, gây ra nguy cơ thảm họa cho vùng đồng bằng.
Tình trạng lũ nghèo dẫn đến hệ lụy người nông dân nghèo.
Ông Thiện phân tích rằng lũ thấp sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến Đồng bằng sông Cửu Long. Trước đây, 80% lượng nước sông Mekong chảy vào mùa lũ, và chỉ 20% vào mùa khô. Dòng chảy mạnh mẽ của mùa lũ có khả năng tải phù sa và cát, bồi đắp tạo nên đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay, dòng chảy mùa lũ yếu đi, lượng cát và phù sa về rất ít.
Lũ thấp cũng làm thu hẹp diện tích ngập ở thượng nguồn sông Mekong, gây ảnh hưởng đến môi trường sinh sản của thủy sản tự nhiên, dẫn đến sự sụt giảm về số lượng trứng cá và cá con.

Tiến sĩ Dương Văn Ni, Giám đốc Quỹ Bảo tồn Mekong, cũng đồng tình với quan điểm này. Ông cho biết dân số ở đồng bằng đã tăng từ 4-5 triệu người lên đến 17 triệu người. Sự gia tăng dân số nhanh chóng làm giảm diện tích canh tác bình quân, trong khi việc khai thác thủy sản tự nhiên quá mức đã làm cạn kiệt nguồn lợi này. Từ những năm 1990, người dân bắt đầu thâm canh tăng vụ để trang trải cuộc sống.
Trong giai đoạn 2005-2010, tác động của các đập thủy điện trên sông Mekong khiến cho cuộc sống của hàng chục triệu người trở nên khó khăn hơn. Để bù đắp, người dân đẩy mạnh thâm canh, không chỉ làm ba vụ lúa mà còn tăng lên ba vụ rưỡi. Nhiều nơi áp dụng các phương pháp như sạ ngầm, khi nước chưa rút đã gieo, hoặc sạ gác, khi vụ cũ chưa thu hoạch đã xuống giống vụ mới, với mục tiêu tăng sản lượng bằng mọi giá.
Cùng với đó, chính sách an ninh lương thực kéo dài trong nhiều năm đã đặt mục tiêu năng suất và sản lượng lên hàng đầu, thay vì lợi nhuận. Việc xây dựng đê bao và cống đập dày đặc phục vụ cho thâm canh đã ngăn chặn phù sa và nguồn thủy sản mùa lũ vào ruộng đồng.
TS. Ni cho rằng, việc tăng vụ lúa có thể mang lại lợi nhuận trước mắt, nhưng về lâu dài, người dân sẽ phải chịu thiệt hại lớn: thủy sản suy giảm, rau xanh ít, đất bạc màu, ruộng bị ô nhiễm, và sức khỏe bị ảnh hưởng. Giá lúa trong nhiều năm qua thường ở mức dưới 10.000 đồng một kg, trong khi vật giá liên tục tăng, khiến cho việc thâm canh càng trở nên thua lỗ.
Khi làm nông trở nên khó khăn, người dân phải đánh bắt xa hơn và theo hướng tận diệt, điều này làm cho môi trường càng trở nên nghèo kiệt. Hai nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong “chuỗi bi kịch” này là những người nghèo sống dựa vào việc khai thác tự nhiên và những nông dân có ít đất.
Về giải pháp, Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện cho rằng việc xây dựng đê bao khép kín để làm ba vụ không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng lũ thấp, nhưng nó góp phần tạo ra những hệ lụy. Việc cần làm trước mắt là giảm thâm canh ba vụ trong các ô đê bao, để đón nhận phần phù sa ít ỏi còn lại từ sông Mekong.
Thực tế cho thấy việc canh tác liên tục ba vụ quanh năm khiến cho đất bị suy kiệt, năng suất khó tăng và người dân thua lỗ. Một nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra rằng, nếu tính cả chi phí xây đê, mất nguồn lợi thủy sản và đất bạc màu, thì việc sản xuất ba vụ trong đê bao sẽ khiến cho xã hội lỗ 47,3 triệu đồng/ha sau 15 năm.
Để giảm thâm canh, theo ông Thiện, cần phải thay đổi quan niệm về an ninh lương thực. Mục tiêu không phải là sản xuất thật nhiều lúa để xuất khẩu, mà là đảm bảo thu nhập cho người dân, hướng đến an ninh lương thực dài hạn thay vì khai thác kiệt quệ đất đai.
Các tỉnh vùng lũ cần hỗ trợ người dân chuyển đổi từ lúa vụ 3 sang nuôi cá, trồng sen, hoặc làm du lịch mùa nước nổi. Khi giảm đê bao khép kín tại Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên, trả lại không gian cho nước lan tỏa, thì trong những năm lũ tương đối cao như năm nay, các đô thị cũng sẽ giảm ngập và thiệt hại.

Từ một góc nhìn khác, TS. Ni cho rằng “lũ nghèo” không còn là câu chuyện phòng chống mà là thích nghi. Trong quá khứ, đã từng có những trận lụt lớn như “năm Thìn bão lụt” gây ra sự tàn phá lớn, nhưng cư dân đồng bằng vẫn có thể gượng dậy và tái thiết từ đầu. Ông cho rằng không nên bi quan, mà nên tin vào khả năng thích ứng của người dân, những người đã từng khai phá vùng đất hoang sơ “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh” để tạo nên một đồng bằng trù phú.
Nhiều vấn đề của đồng bằng đã được nhìn nhận lại kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 120 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, hay còn gọi là “Nghị quyết thuận thiên”. Tinh thần cốt lõi của nghị quyết này là tôn trọng quy luật tự nhiên, không can thiệp thô bạo, sống chung với lũ và nước mặn.
TS. Ni cho biết, giải pháp cần tập trung vào nhóm dễ bị tổn thương, bao gồm ngư dân và nông dân ít đất. Đây là một bài toán kinh tế – xã hội chứ không đơn thuần là kỹ thuật. Trước mắt, nhà nước cần đảm bảo thu nhập hàng ngày cho nhóm này để họ không phải khai thác tận diệt hay thâm canh quá mức. Khi sinh kế ổn định, mới có thể tiến tới phục hồi tự nhiên, với một lộ trình rõ ràng.
Ông nhận định rằng việc nói sống chung với lũ thì dễ, nhưng sống chung như thế nào mới là quan trọng. Hiện tại, các chính sách và mục tiêu đã có, nhưng vẫn còn thiếu các giải pháp và mô hình cụ thể để người dân “mắt thấy tai nghe”, từ đó tạo ra sự đồng thuận.
Về vấn đề phù sa bị thiếu hụt do các đập thủy điện, ông Ni nhận định rằng đây là nguồn dinh dưỡng tự nhiên mà từ lâu đồng bằng đã phải phụ thuộc vào. Điều này tương tự như việc nông dân trước đây phải vớt ấu trùng tôm sú ngoài tự nhiên và cá bột trên sông để nuôi bán. Về sau, do nhu cầu thị trường lớn, họ đã nghĩ ra việc sinh sản nhân tạo hai loài này.
Hiện nay, nông nghiệp thải ra hàng triệu tấn phế phẩm mỗi năm, chưa kể đến chất thải đô thị. Với công nghệ hiện có, các nguồn thải này có thể được nghiên cứu để sản xuất phân bón vi sinh, trở thành “phù sa nhân tạo” để bổ sung dinh dưỡng cho đồng ruộng.
Chuyên gia cũng cho rằng thiên tai thường lặp lại theo chu kỳ, và đây là dấu hiệu cho thấy những điểm yếu của hệ sinh thái. Qua nhiều đợt lũ hay triều cường, có thể nhận biết được những khu vực nào dễ bị tổn thương để có giải pháp ứng phó phù hợp, ưu tiên phát triển những lĩnh vực ít gây thiệt hại.
Các quốc gia như Israel và Hà Lan đã từng chịu hạn hán và ngập lụt, nhưng từ đó họ đã xây dựng được những chiến lược thích nghi hiệu quả. “Do biến đổi khí hậu lặp lại ngày càng nhiều, Việt Nam cũng có thể trở thành một nước đi đầu về kinh nghiệm thích ứng khi thiên tai”, TS. Ni đánh giá.
Admin
Nguồn: VnExpress
