Lũ lụt lịch sử Nam Trung Bộ: Đợt lũ lớn nhất 50 năm

Báo cáo từ Cục Khí tượng Thủy văn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ngày 23/11 đã chỉ ra những con số đáng báo động về đợt mưa lũ lịch sử tại Nam Trung Bộ. Từ 19h ngày 15/11 đến 19h ngày 21/11, lượng mưa phía đông Đăk Lăk đạt mức rất cao, phổ biến từ 500 đến 1.200 mm. Đặc biệt, một số trạm đo được lượng mưa vượt trội như Sông Hinh (1.861 mm), Hòa Mỹ Tây (1.575 mm) và Sơn Long (1.363 mm). Khu vực phía tây của tỉnh cũng ghi nhận lượng mưa đáng kể, từ 150 đến 400 mm, thậm chí có nơi cao hơn như M’Đrăk (805 mm) và Hòa Phong (434 mm).

Bản đồ ngập khu vực hạ du Sông Ba - rốn lũ Hoà Thịnh và Đông Hoà. Dữ liệu độ sâu ngập cung cấp bởi VegaCosmos & VSGA xử lý từ ảnh vệ tinh STRIX (Synspective) độ phân giải 3m chiết tách vùng ngập. Đồ hoạ: Quang Tuệ
Lũ lụt Sông Ba: Bản đồ ngập lụt Hòa Thịnh & Đông Hòa từ ảnh vệ tinh. Ảnh: Internet

Tình hình tương tự diễn ra tại Gia Lai, với lượng mưa phổ biến từ 300 đến 600 mm. Các khu vực như Canh Liên (1.000 mm), An Quang (988 mm) và Vân Canh (927 mm) ghi nhận lượng mưa lớn. Phía tây của tỉnh có lượng mưa thấp hơn, dao động từ 100 đến 300 mm, tuy nhiên Nghĩa An (498 mm) và Hồ An Khê (438 mm) vẫn là những điểm đáng chú ý. Khánh Hòa cũng không tránh khỏi tình trạng mưa lớn, với lượng mưa trung bình từ 500 đến 700 mm ở phía bắc. Một số địa điểm như Đại Lãnh (1.071 mm), Khánh Hiệp (1.002 mm) và Sơn Thái (877 mm) đã chứng kiến lượng mưa vượt quá 1.000 mm.

Khu vực xã Hoà Thịnh. Ảnh: Nghinh Phong
Hòa Thịnh trong lũ: Ảnh Nghinh Phong. Ảnh: Internet

Cục Khí tượng Thủy văn nhấn mạnh rằng lượng mưa đo được tại Sơn Hòa (Đăk Lăk) với 601 mm và Quy Nhơn (Gia Lai) với 380 mm đã vượt qua các kỷ lục lịch sử trước đó. Cơ quan này dẫn phân loại của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) và nhận định đây là những sự kiện hiếm gặp, gần như không thể dự báo chính xác về mặt định lượng.

Do lượng mưa từ tháng 10 đến giữa tháng 11/2023 ở Nam Trung Bộ đã vượt mức trung bình nhiều năm từ 120 đến 200%, đất đai đã bão hòa nước. Vì vậy, chỉ cần thêm 300-500 mm mưa trong đợt mưa chính vừa qua là đủ để gây ra lũ lớn.

Trong các ngày từ 15 đến 21/11, hàng loạt con sông ở Nam Trung Bộ đã vượt đỉnh lũ lịch sử. Sông Kỳ Lộ (Đăk Lăk) phá kỷ lục năm 2009, sông Ba vượt mức năm 1993, và sông Dinh Ninh Hòa (Khánh Hòa) vượt kỷ lục năm 1986. Đỉnh lũ trên sông Ba tại trạm Phú Lâm được ước tính có chu kỳ lặp lại khoảng 50 năm.

Cục Khí tượng Thủy văn đánh giá việc lũ đồng thời phá kỷ lục trên 3-5 lưu vực sông là hiện tượng cực kỳ hiếm gặp, vượt quá các mức lũ tính toán thông thường. Theo Cục, ngay cả khi dự báo chính xác cũng khó có thể ngăn chặn được những thiên tai có sức tàn phá vượt quá lịch sử.

Số liệu thống kê trong 30 năm qua cho thấy, các đợt lũ lớn ở Nam Trung Bộ thường xảy ra trước ngày 15/11, nhưng đợt lũ này lại đến muộn hơn. Cục Khí tượng Thủy văn nhận định, điều này cho thấy quy luật lũ truyền thống đang thay đổi, và xu hướng thời tiết ngày càng trở nên cực đoan và khó lường.

Theo cơ quan khí tượng, nguyên nhân của đợt mưa lớn này là do sự kết hợp của nhiều yếu tố thời tiết cực đoan. Trên cao, nhiễu động trong đới gió đông ở độ cao từ 1.500 đến 5.000 m hoạt động mạnh mẽ, kết hợp với không khí lạnh cường độ lớn, tạo ra vùng hội tụ ẩm từ tầng thấp đến tầng cao.

Hơi nước từ Biển Đông liên tục được đưa vào khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên. Địa hình dãy Trường Sơn đóng vai trò như một bức tường chắn gió, làm tăng cường sự đối lưu và duy trì mưa kéo dài. Lượng mưa lớn, phổ biến từ 800 đến 1.700 mm ở nhiều nơi, vượt quá khả năng tiêu thoát tự nhiên của khu vực.

Ngoài ra, đặc điểm địa hình và thủy văn của Trung Bộ cũng góp phần làm tăng nguy cơ lũ lụt. Các lưu vực sông ngắn và dốc khiến nước mưa tập trung nhanh chóng về hạ lưu, dẫn đến lũ quét, lũ ống và lũ lên nhanh chỉ trong vài giờ. Tình trạng nước dâng cao trong đất liền kết hợp với sóng lớn từ 3-5 m trên Biển Đông đã làm chậm quá trình tiêu thoát nước.

Biến đổi khí hậu cũng là một yếu tố quan trọng, làm gia tăng cường độ và tính khó dự đoán của các hiện tượng mưa cực đoan, từ đó làm tăng tần suất lũ lớn trong 10-15 năm gần đây. Nhiều trạm quan trắc đã ghi nhận lượng mưa vượt mức lịch sử, từ 1.000 đến 1.700 mm mỗi đợt.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và thời tiết ngày càng cực đoan, GS.TS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng Thủy văn Việt Nam, nhấn mạnh sự cần thiết phải thay đổi phương pháp dự báo và cảnh báo. Ông cho biết, dù đã dự báo được diện mưa của đợt vừa rồi, việc xác định chính xác tổng lượng mưa tại một số điểm cục bộ vẫn còn sai số. Đây là một hạn chế chung đối với các khu vực nhiệt đới gió mùa có địa hình phức tạp, gây khó khăn cho việc dự báo mưa lớn cục bộ trong phạm vi hẹp.

Các cảnh báo về sạt lở đất hiện nay vẫn chủ yếu ở mức “nguy cơ cao tại các xã, phường”, chưa thể xác định chính xác vị trí sạt lở cụ thể (ví dụ như sườn đồi, tuyến đường nhỏ). Mạng lưới trạm quan trắc tự động ở thượng nguồn và vùng núi sâu, nơi lũ quét thường bắt đầu, vẫn còn thưa thớt, dẫn đến thiếu dữ liệu đo đạc thực tế để cảnh báo lũ lên nhanh.

GS Thục đề xuất ba nhóm giải pháp chính. Về công nghệ và hạ tầng, cần tăng cường mật độ mạng lưới quan trắc bằng cách lắp đặt thêm các trạm đo mưa tự động và trạm thủy văn chuyên dụng tại các vùng thượng lưu và vùng “lõm” sóng di động ở Nam Trung Bộ. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh việc sử dụng hệ thống radar thời tiết tại các đô thị và vùng núi để theo dõi mây và mưa chi tiết, phục vụ cảnh báo trong thời gian cực ngắn.

Em nhỏ bật khóc khi được cứu hộ qua vùng ngập trên đường 23 Tháng 10, phường Tây Nha Trang, ngày 20/11. Ảnh: Bùi Toàn
Nha Trang lũ lụt: Khoảnh khắc em bé được giải cứu (Ảnh: Bùi Toàn). Ảnh: Internet

Các cơ quan dự báo cần phát triển các mô hình trí tuệ nhân tạo (AI) dựa trên dữ liệu lũ lụt lịch sử của từng địa phương để cảnh báo ngập lụt đô thị (như Nha Trang, Phan Rang) và sạt lở đất theo thời gian thực. Đồng thời, cần hoàn thiện bản đồ phân vùng rủi ro thiên tai tỷ lệ lớn (1:2000 hoặc 1:5000) cho các khu vực dân cư trọng điểm.

Về công tác dự báo, GS Thục cho rằng cần chuyển đổi sang phương pháp “dự báo dựa trên tác động”. Thay vì chỉ thông báo về lượng mưa 200 mm, bản tin cần mô tả cụ thể hậu quả có thể xảy ra, như việc mưa lớn sẽ gây ngập đường A ở độ sâu bao nhiêu, nguy cơ sạt lở tại đèo B, hoặc nước dâng tràn đê C. Điều này sẽ giúp chính quyền và người dân dễ dàng hình dung mức độ nguy hiểm và có biện pháp ứng phó kịp thời.

Cuối cùng, chuyên gia nhấn mạnh sự cần thiết của việc siết chặt quy trình vận hành liên hồ chứa tại các lưu vực sông ở Nam Trung Bộ (vốn là những sông ngắn và dốc). Việc xả lũ cần được tính toán kỹ lưỡng dựa trên dữ liệu dự báo mưa để tránh tình trạng “lũ chồng lũ” ở hạ du. Thông tin cảnh báo cần được truyền tải trực tiếp đến người dân thông qua nhiều kênh khác nhau, ngay cả trong trường hợp mất điện hoặc nghẽn mạng cục bộ.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *