Trong ký ức kinh hoàng về đêm 19/11, chị Phương, một người mẹ hai con ở hạ lưu sông Ba (Đà Rằng), tâm sự: “Có lúc tôi nghĩ chỉ giữ được đứa nhỏ”. Chồng đi làm xa, ba mẹ con chị sống trong căn nhà cấp 4. Chị đã nhận được thông báo về mưa lũ qua nhóm Zalo của khu dân cư, nhưng đến chiều 19/11, điện mất, mạng internet và sóng điện thoại chập chờn khiến chị khó cập nhật thông tin.
Cùng thời điểm, thủy điện Sông Ba Hạ, cách Hòa Thịnh gần 60 km, xả lũ kỷ lục 16.100 m3/s. Lưu lượng nước này đủ sức lấp đầy khoảng 80 căn nhà rộng hơn 50 m2 chỉ trong một giây. Tuy nhiên, chị Phương chưa hình dung hết mức độ nguy hiểm, chỉ kịp kê những đồ dễ hư hỏng lên cao hơn đầu gối và chuẩn bị thức ăn đủ dùng trong một, hai ngày.
Chiều cùng ngày, nước bắt đầu tràn vào phòng khách, nhấn chìm đồ đạc. Chị Phương nghĩ rằng nước sẽ rút như mọi năm nên không quá lo lắng. Nhưng càng về đêm, nước càng dâng nhanh. Đến gần nửa đêm, nước đã ngập qua bộ ghế phòng khách, chị vội bế hai con lên dầm nhà, là phần khung sắt dưới mái ngói. Nhưng nước lũ vẫn tiếp tục dâng cao, nhấn chìm cả phần khung sắt.
Trong đêm tối, mưa lớn trút xuống, thời tiết rét buốt, ba mẹ con chị Phương ôm nhau vắt vẻo trên thanh sắt. Đến rạng sáng, chị tháo ngói, đẩy con trai lên mái nhà rồi chui theo. Do sức yếu, chị không thể kéo con gái lên được. Nước tiếp tục dâng, ngập đến cổ con, chị cố gắng hết sức giữ chặt tay con để không bị nhấn chìm, đồng thời lớn tiếng kêu cứu.
Tiếng kêu cứu của chị đã được hai anh em Huỳnh Thanh Viên (48 tuổi), Huỳnh Thanh Khánh (50 tuổi) và trưởng thôn Trần Nhật Phú (55 tuổi) nghe thấy. Họ chèo ghe đến đưa ba mẹ con chị vào trú tạm trong một căn nhà ba tầng gần đó. Bên dưới, dòng nước vẫn cuộn xiết bao quanh ngôi nhà. Nhiều người dân khác trong thôn cũng bị mắc kẹt, chờ lực lượng cứu hộ đến vào sáng hôm sau.
Ba mẹ con chị Phương chỉ là một trong số hàng nghìn người dân ở rốn lũ Đăk Lăk không kịp di dời khi trận lũ lịch sử “50 năm có một” ập đến. Tại xã Hòa Thịnh, sáng 21/11, lãnh đạo xã báo cáo riêng thôn Phú Phong có khoảng 1.000 người bị kẹt nhiều ngày; các thôn Phú Mỹ, Mỹ Điền… còn hàng nghìn hộ bị cô lập. Đến trưa 24/11, toàn xã ghi nhận 4.820/8.255 nhà bị ngập hoàn toàn, và 25 người thiệt mạng, chiếm gần 40% số nạn nhân của toàn tỉnh.
Ông Lê Chí Hoại, Chủ tịch UBND xã Hòa Thịnh, cho biết sau khi nhận công điện của tỉnh từ ngày 16/11, xã đã huy động khoảng 300 người, bao gồm công an và quân đội, để ứng phó. Vào sáng trước khi lũ đạt đỉnh, địa phương đã di tản 500 người ở vùng trũng, nhà tạm về hội trường xã và nhà di tích. Tuy nhiên, đợt lũ này dâng cao 4-5 m, gấp ba lần đỉnh lũ lịch sử năm 1993, gây khó khăn cho việc tiếp cận và giải cứu người bị mắc kẹt.

Theo ông Hoại, mưa lớn kéo dài 6 ngày, đỉnh điểm vào ngày 19/11, trùng với thời điểm thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ kỷ lục, trong khi các hồ thủy lợi đã vượt quá sức chứa. Địa hình vùng trũng khiến nước dâng cực nhanh, lại xảy ra vào ban đêm, khiến nhiều hộ gia đình không kịp trở tay dù đã được cảnh báo trước.
Đài Khí tượng Thủy văn Khánh Hòa đã đưa ra các bản tin dự báo về mưa lớn ở phía đông Đăk Lăk (Phú Yên cũ). Từ ngày 15 đến 21/11, khu vực này có lượng mưa từ 500-1.200 mm; riêng Sông Hinh đạt 1.861 mm, Hòa Mỹ Tây 1.575 mm, Sơn Long 1.363 mm. Phía tây tỉnh có lượng mưa từ 150-400 mm, một số nơi cao hơn như M’Đrăk 805 mm, Hòa Phong 434 mm. Cơ quan khí tượng đánh giá Đăk Lăk ở mức rủi ro thiên tai cấp 4, tương đương lũ đặc biệt lớn hoặc bão cấp 13-14.
Địa hình chia cắt và khu vực ngập gần sông, suối gây khó khăn cho công tác cứu hộ. Ông Hoàng Anh Tuấn, Chủ tịch UBND xã Hòa Xuân (giáp Hòa Thịnh, nơi có 8 người thiệt mạng trong lũ), cho biết có thời điểm nước dâng nhanh, chảy xiết, nhiều khu vực trong xã bị cô lập. Dòng chảy mạnh khiến canô dễ bị lật, buộc xã phải nhờ phường Hòa Hiệp hỗ trợ từ hướng biển.
Anh Trần Quốc Trúc, thành viên nhóm cứu hộ Người lái đò, kể lại rằng khi các tin nhắn cầu cứu dồn dập gửi về, nhóm anh đã quyết định lái 5 canô và xuồng đi cứu người. Với kinh nghiệm làm dịch vụ du lịch bằng canô, moto nước chuyên nghiệp và được tập huấn cứu hộ, anh đã từng trải qua nhiều tình huống sông nước, nhưng lần này vào tâm lũ thực sự không dễ dàng.
Anh Trúc mô tả: “Nước chảy rất xiết và sóng đánh mạnh, chỉ có canô công suất lớn mới có thể tiến vào tâm lũ”. Đêm 19 và 20/11, thử thách lớn nhất đối với anh không chỉ là dòng nước mênh mông mà còn là những hàng dây điện và rào thép nhọn của nhà dân, những cạm bẫy ẩn dưới mặt nước đục ngầu. Một chiếc canô composite của đội đã bị sóng đánh úp tan khi va vào trụ điện, buộc phải bỏ lại hiện trường.
Theo Chủ tịch xã Hòa Xuân, vào thời điểm đỉnh lũ, thông tin liên lạc bị gián đoạn, sóng điện thoại chập chờn càng cản trở công tác điều hành. Ông Tuấn nói: “Muốn gọi điện phải leo lên sân thượng trụ sở, nói mà bên kia chỉ nghe được câu được câu mất”.

Lãnh đạo xã cho biết thêm, vào đêm nước lên cao, phần lớn các hộ dân chỉ còn người già, phụ nữ và trẻ em. Thanh niên và đàn ông trong nhà đều đi làm thuê, hái cà phê ở vùng lân cận, không có người xử lý khi tình huống nguy cấp xảy ra.
Một hạn chế khác là các địa phương thiếu phương tiện cứu hộ. Chủ tịch xã Hòa Thịnh cho biết mực nước dâng từ 1-2 m lên 5 m chỉ trong khoảng thời gian từ tối 19/11 đến rạng sáng hôm sau, khiến nhiều nhà cấp bốn bị nhấn chìm, người dân phải tháo ngói leo lên mái nhà kêu cứu. Lúc này, xã chỉ có vài vỏ lãi, không thể tiếp cận người bị nạn. Mãi đến vài giờ sau, canô của công an và quân đội mới chi viện nhưng chỉ có khoảng 10 chiếc, trong khi số người cần giải cứu là rất lớn. Ông Hoại nói: “Chúng tôi chỉ tiếp cận được khu vực gần đường lớn, chưa thể vào sâu các vùng trũng trong thôn”.
Tình trạng thiếu phương tiện cũng xảy ra tại xã Hòa Xuân. Vào thời điểm lũ lên, xã chỉ có một canô của công an; hai canô của biên phòng vốn quen hoạt động ngoài biển nên rất khó di chuyển trong vùng nước xiết. Để kịp thời di dời dân, xã đã phải thuê thêm canô từ các địa phương lân cận, huy động từ các tổ chức, cá nhân. Sau khi có canô, xã lại phải tìm xe cẩu để đưa vào vùng ngập sâu. Việc thuê và chờ vận chuyển khiến công tác giải cứu bị chậm trễ. Xuồng nhỏ của người dân cũng rất ít, chỉ có thể đi lại được trong các hẻm nhỏ, không đáp ứng được việc cứu hộ trên diện rộng.
Thạc sĩ Lê Thị Xuân Lan, nguyên phó phòng Dự báo Đài Khí tượng thủy văn Nam Bộ, nhận định rằng cơ quan khí tượng đã cảnh báo rủi ro thiên tai cấp 4, nhưng thực tế lũ có thể đã đạt đến mức cao nhất là cấp 5 (mức thảm họa). Theo chuyên gia, đặc thù sông ngòi miền Trung là ngắn, dốc, lòng sông hẹp, nên mưa lớn tất yếu sẽ gây ra lũ. Tuy nhiên, nếu chỉ là lũ tự nhiên do mưa, nước sẽ lên nhanh nhưng vẫn trong tầm kiểm soát. Thực tế vừa qua, nước lũ dâng với tốc độ “khủng khiếp” do thủy điện xả lũ khiến người dân không kịp trở tay. Bà nói: “Thiên tai, kể cả nhân tai đã xảy ra ở miền Trung những ngày qua”.
Chuyên gia cho rằng trong tình huống “thiên tai ngoài sức tưởng tượng, vượt tầm kiểm soát”, khó có sự phối hợp hoàn hảo giữa các cơ quan để giúp dân thoát khỏi vùng lũ. Trong tình huống rủi ro này, toàn bộ hệ thống phòng chống thiên tai phải ở trạng thái “báo động đỏ”, huy động trực thăng, tàu thuyền để tiếp cận vùng lũ nhanh nhất có thể để cứu người dân.
Bà Lan cho rằng phương thức cảnh báo thiên tai cần được cải thiện. Khi mưa lũ gây mất điện, gián đoạn internet, các ứng dụng gần như không còn tác dụng. Thay vào đó, tin nhắn SMS tự động qua mạng viễn thông có thể gửi cảnh báo sớm đến toàn bộ người dân trong vùng nguy cơ, tương tự như cách Nhật Bản áp dụng khi cảnh báo động đất.
Người dân cũng cần được trang bị các kỹ năng sinh tồn. Các địa phương nên biên soạn “cẩm nang sống sót” dạng tờ rơi, phát đến từng hộ dân, hướng dẫn cách ứng phó với bão, lũ, sạt lở để chủ động xử lý khi lực lượng chức năng chưa thể tiếp cận.
Bà Lan nhấn mạnh rằng, ngay cả khi đã muộn, cần rà soát tất cả các nhà máy thủy điện và công khai trung thực số liệu xả lũ vừa qua để rút kinh nghiệm. Bà nói: “Nếu các con số không rõ ràng hoặc không đúng, chúng ta sẽ không rút ra được điều gì”. Bà kiến nghị tăng cường đầu tư cho mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thủy văn, đặc biệt là tại các khu vực có nhà máy thủy điện, nhằm nâng cao độ chính xác của các mô hình dự báo trong tương lai.
Liên quan đến việc cảnh báo, chuyên gia thời tiết Nguyễn Ngọc Huy cho biết hiện nay thông tin về mưa lũ được quy định theo luật phòng chống thiên tai, dựa trên lượng mưa, khối lượng nước xả từ các nhà máy thủy điện và mức báo lũ. Tuy nhiên, các số liệu này khó giúp người dân hình dung được mức nước sẽ dâng đến đâu.
Ông dẫn chứng ví dụ vào ngày 19/11, khi thủy điện Sông Ba Hạ xả 16.100 m3/s, trên mức báo động 3 là 5,81 m, người dân vùng lũ Phú Yên không thể hình dung được nhà của họ sẽ bị ngập đến mức nào. Vì vậy, thông báo về mức độ ngập cần phải trực quan và dễ hình dung hơn, ví dụ như dựa vào mặt đường, quốc lộ hoặc các công trình nổi tiếng làm mốc để người dân chủ động phòng tránh.

Ông Huy lấy ví dụ về TP Huế, nơi người dân dựa vào độ cao của Đập Đá, một đập tràn hơn 100 năm tuổi ngăn mặn xâm nhập sông Hương, để nhận biết mức lũ. Khi nước dâng ngang công trình này, những vùng thấp trũng trong nội ô sẽ kịp thời kê cao đồ đạc và đưa ra phương án di dời người dân.
Ông khuyến cáo các tỉnh thường xuyên xảy ra lũ lụt nên lắp đặt các cột bão lũ tại từng khu dân cư, thôn, ấp, hiển thị mức nước dâng để người dân đối chiếu với nhà ở của mình. Ông nói: “Càng cụ thể và gần gũi, người dân càng dễ dàng chủ động phòng tránh”.
Admin
Nguồn: VnExpress
