Vụ việc tranh chấp vàng kéo dài suốt 15 năm qua giữa bà Tâm và bà Nguyệt tại Kiên Lương, Kiên Giang, vẫn chưa có hồi kết, gây khó khăn cho các chấp hành viên thi hành án.
Năm 2008, bà Tâm đã 8 lần cầm cố tổng cộng 163,7 chỉ vàng 24K tại tiệm vàng của bà Nguyệt để vay 237 triệu đồng, với lãi suất thỏa thuận 3% mỗi tháng. Số vàng này bao gồm 85 chỉ vàng thẻ, 3 dây chuyền, 2 mặt dây chuyền, 2 lắc tay và 3 nhẫn. Đến tháng 8/2009, bà Tâm bị yêu cầu trả hơn 147 triệu đồng tiền lãi để chuộc lại vàng. Không đồng ý với số lãi này, bà khởi kiện, yêu cầu tòa án buộc bà Nguyệt phải cho chuộc lại vàng và tính lãi theo quy định pháp luật.
Phía bà Nguyệt cho rằng hai bên đã thỏa thuận nếu bà Tâm không đóng lãi trong 60 ngày, bà có quyền bán vàng để thu hồi vốn. Do bà Tâm chỉ đóng 4 triệu đồng tiền lãi, bà Nguyệt coi như “tài sản cầm cố đã đứt”.
Tòa án tỉnh Kiên Giang đã tuyên bà Tâm phải trả cho bà Nguyệt 237 triệu đồng tiền gốc và 111,4 triệu đồng tiền lãi, tổng cộng hơn 348 triệu đồng. Đổi lại, bà Nguyệt phải trả 163,7 chỉ vàng 24K cho bà Tâm. Việc giao tiền và vàng phải diễn ra đồng thời.
Sau khi bản án có hiệu lực, chấp hành viên đã thu của bà Tâm 348 triệu đồng và của bà Nguyệt 163,7 chỉ vàng 24K. Tuy nhiên, bà Tâm không đồng ý nhận vàng vì cho rằng số vàng này không đúng chất lượng và chủng loại như khi bà cầm cố.
Bà Tâm giải thích rằng 163,7 chỉ vàng 24K mà bà Nguyệt trả chỉ có chất lượng 90% (vàng 9 tuổi) và là loại vàng cục, không thể giao dịch trên thị trường. Bà cho rằng đây không phải loại vàng bà đã cầm cố và không đúng chủng loại, gây thiệt hại khoảng 10 chỉ vàng.
Ông Trần Thanh Út, Trưởng phòng Nghiệp vụ, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang, cho biết sau thời gian dài thuyết phục, đến tháng 7/2014, bà Tâm đồng ý nhận lại số vàng. Tuy nhiên, sau đó bà liên tục khiếu nại về việc vàng không đúng chủng loại và độ tuổi như khi cầm cố.
Theo ông Út, có hai vấn đề chính: Thứ nhất, bản án chỉ nêu về số lượng vàng mà không đề cập đến chất lượng, gây khó khăn khi thi hành án. Thứ hai, bà Tâm nhất quyết đòi đúng số vàng “kỷ niệm” đã thế chấp.
TAND tỉnh Kiên Giang giải thích rằng các biên nhận cầm đồ chỉ ghi số lượng, không ghi độ tuổi của vàng. Tuy nhiên, theo phong tục tập quán Việt Nam, vàng thẻ có độ tuổi 99,99%, còn vàng nữ trang là 98%. Như vậy, 115 chỉ vàng thẻ của bà Tâm có độ tuổi 99,99%, còn 48,7 chỉ vàng trang sức có độ tuổi 98%.
Ông Út cho rằng giải thích này của tòa án đã làm thay đổi nội dung vụ án nhưng không thể sửa đổi bản án. Quyết định thi hành án phải sửa đổi để chấp hành viên thuyết phục, nhưng bà Nguyệt không đồng ý vì cho rằng đã trả vàng đúng theo bản án.
Ông Út nhận định công văn của tòa án là căn cứ để chấp hành viên thi hành án, nhưng lại dựa trên phong tục tập quán, không có tính pháp lý. Quan trọng hơn, hiện vật không còn nên không thể cưỡng chế thi hành án.
Liên ngành thi hành án dân sự, Tòa án, VKS Kiên Giang thống nhất quan điểm không thể thi hành án theo giải thích của TAND tỉnh Kiên Giang về độ tuổi vàng. Nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng trả lời không có chức năng trả lời về độ tuổi của vàng và không có hiện vật để xác định.
Ông Út đánh giá đây là một sơ suất của tòa án và là bài học kinh nghiệm cho các chấp hành viên. Lẽ ra, khi thấy có vấn đề khó thi hành, cần kiến nghị ngay để giám đốc thẩm, tuyên lại bản án. Vụ việc này được xem là bài học nghiệp vụ trong ngành. Vụ việc vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có hướng giải quyết dứt điểm sau 15 năm.
Admin
Nguồn: VnExpress