Xe điện, F&B: Cơ hội tham gia thị trường carbon

Cùng với ba lĩnh vực tiên phong là nhiệt điện, sản xuất sắt thép và xi măng, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp cùng các bộ, ngành liên quan để xác định thêm những lĩnh vực tiềm năng khác có đủ điều kiện tham gia thị trường carbon trong thời gian tới.

Tại tọa đàm “Từ CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon) đến thị trường carbon” diễn ra ngày 23/6, TS. Nguyễn Thành Công, Phó trưởng phòng Thị trường carbon (Cục Biến đổi Khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, hai lĩnh vực có nhiều tiềm năng giảm thải ở Việt Nam là xe điện và chế biến thực phẩm (F&B). Theo ông, các doanh nghiệp trong những lĩnh vực này có nền tảng tốt để tham gia thị trường carbon trong tương lai.

Việc tham gia thị trường carbon sẽ giúp các doanh nghiệp tăng cường nguồn lực tài chính để giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời chủ động ứng phó với các biện pháp tài chính carbon mà các nước nhập khẩu có thể áp dụng trong tương lai.

Trên thế giới, một số doanh nghiệp trong các lĩnh vực tương tự đã thành công trong việc “biến giải pháp giảm thải thành tiền”. Điển hình như hãng xe điện Tesla của Mỹ, năm ngoái đã thu về gần 3 tỷ USD từ việc bán tín chỉ carbon, tăng gấp rưỡi so với năm 2023. Đây là một nguồn thu đáng kể giúp Tesla bù đắp chi phí sản xuất xe điện ban đầu.

Tín chỉ carbon là một loại chứng chỉ có thể giao dịch, cho phép người sở hữu phát thải một tấn CO2 hoặc một loại khí thải nhà kính tương đương.

Ông Công cho biết, Tesla là một ví dụ điển hình được các doanh nghiệp sản xuất xe điện tại Việt Nam đặc biệt quan tâm. Ông cũng cho biết thêm, nhiều doanh nghiệp trong ngành đồ uống trên thế giới, như Coca-Cola và Heineken, đã đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 hoặc sớm hơn.

Thực tế tại Việt Nam, giao thông là một trong sáu lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo danh mục được ban hành năm 2024. Ngành này hiện đang thải ra 32,9 triệu tấn CO2 tương đương (CO2e) mỗi năm.

TP.HCM hiện đang nghiên cứu khả năng tạo tín chỉ carbon từ việc giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông, ưu tiên chuyển đổi xe buýt và xe của lực lượng giao hàng (shipper) sang xe điện. Các giải pháp ưu tiên tiếp theo bao gồm giảm phát thải thông qua hệ thống đường sắt đô thị (metro) bằng cách khuyến khích người dân giảm sử dụng phương tiện cá nhân, kết hợp với việc lắp đặt điện mặt trời trên mái các nhà ga. Thành phố đặt mục tiêu chuyển đổi 80% tài xế xe máy công nghệ sang xe điện vào năm 2027 nếu có cơ chế hỗ trợ tài chính, miễn lệ phí trước bạ và thuế VAT.

TS Nguyễn Thành Công - Phó trưởng phòng Thị trường carbon, Cục Biến đổi Khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường - tại sự kiện. Ảnh: Dân trí
TS. Nguyễn Thành Công nói về thị trường carbon tại sự kiện. Ảnh: Internet

Tính đến nay, Selex Motors là đơn vị duy nhất đã đăng ký thành công dự án tín chỉ carbon, dự kiến bán tín chỉ trong 5 năm với tổng lượng giảm phát thải hơn 197.000 tấn CO2.

Thị trường carbon sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh doanh, chẳng hạn như đầu tư và bán tín chỉ cho các cơ sở gây ô nhiễm vượt quá hạn ngạch được cấp. Theo Nghị định 119 về phân bổ hạn ngạch khí thải, các doanh nghiệp nhiệt điện, xi măng và sắt thép được phép mua lượng tín chỉ carbon lên tới 30% hạn ngạch được cấp để bù trừ. Ông Công nhận định đây là một con số tương đối cao, tạo sự linh hoạt cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ hạn ngạch phát thải khí nhà kính.

Giải thích về Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), TS. Công cho biết đây là một công cụ tương tự như thuế carbon áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu vào thị trường châu Âu. CBAM đang trong giai đoạn chuyển tiếp đến hết năm 2024 và sẽ chính thức áp dụng từ năm 2026 đối với các lĩnh vực có cường độ phát thải cao như sắt, thép, phân bón và xi măng.

Theo quy định của CBAM, các doanh nghiệp EU phải báo cáo hàng quý về lượng phát thải khí nhà kính của sản phẩm nhập khẩu từ các quốc gia khác, bao gồm tổng lượng hàng hóa nhập khẩu, lượng phát thải trong quá trình sản xuất và các cơ chế, mức giá thuế carbon mà các nước xuất khẩu đang áp dụng.

Ví dụ, Singapore hiện đang áp thuế 25 USD/tấn CO2. Giá điều chỉnh cuối cùng mà doanh nghiệp phải nộp tại EU sẽ được khấu trừ mức thuế đã nộp tại nước xuất khẩu để tránh việc tính phí hai lần. Trong khi đó, Việt Nam chưa có công cụ định giá hoặc thuế carbon. Nếu xuất khẩu 1 tấn thép, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải mua lượng chứng chỉ carbon tương ứng với lượng phát thải trong quá trình sản xuất. Nếu không có các biện pháp giảm thải, chi phí CBAM có thể lên tới 20-35% giá trị hàng hóa.

TS. Công nhận định rằng việc Việt Nam có thể “giữ lại” được giá carbon như Singapore sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn, giúp các nguồn tài nguyên ở lại trong nước và được phân bổ cho các sáng kiến xanh. Bộ Tài nguyên và Môi trường đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan để xây dựng thị trường carbon, sớm có cơ chế định giá carbon trong nước, từ đó giảm chi phí cho doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hóa sang EU.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *