Tại hội thảo “Tiếp cận thị trường Halal toàn cầu – Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam” diễn ra ngày 25/6, TS Aemin Nasir từ Đại học RMIT đã nhấn mạnh tiềm năng to lớn mà thị trường Halal mang lại cho các doanh nghiệp Việt.
Halal là khái niệm chỉ những sản phẩm được phép sử dụng theo luật Hồi giáo, với những yêu cầu khắt khe về thành phần, quy trình chế biến và vận chuyển. Thị trường này đang ngày càng mở rộng và trở thành một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới.
Hiện nay, Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE), Indonesia và Malaysia là những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong số 57 quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC). Tuy nhiên, TS Aemin chỉ ra rằng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Hồi giáo còn thiếu vắng các mặt hàng tiêu dùng và nông sản như cà phê, rau quả, hạt điều, trong khi nhu cầu đối với các sản phẩm này tại thị trường Halal là rất lớn.
Theo số liệu từ công ty nghiên cứu thị trường Research and Markets, thực phẩm Halal được dự báo là nhóm sản phẩm có mức tăng trưởng mạnh nhất, từ 2.700 tỷ USD năm 2024 lên gần 6.000 tỷ USD vào năm 2033, tăng hơn gấp đôi chỉ trong vòng 10 năm.
PGS.TS Đinh Công Hoàng từ Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi nhận định rằng, bất kỳ quốc gia hoặc doanh nghiệp nào bỏ qua phân khúc thị trường này sẽ đánh mất cơ hội tăng trưởng dài hạn.
Không chỉ thị trường xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa chú trọng đến nhóm khách hàng theo đạo Hồi ngay tại thị trường nội địa. Bà Bá Thị Nguyệt Thu, Chủ tịch HĐQT HTX Hà Nội Xanh, chia sẻ rằng việc tìm kiếm địa điểm ăn uống phù hợp cho các đoàn khách đến từ các nước Hồi giáo là một thách thức lớn.
Ông Mahmood Ur Rehman Janjua, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Việt Nam – Pakistan, kể lại rằng trong chuyến công tác đến Yên Bái cách đây 20 năm, ông gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đồ ăn phù hợp với yêu cầu Halal. Nhận thấy tiềm năng lớn trong lĩnh vực F&B Halal tại Việt Nam, ông đã quyết định đầu tư vào thị trường này với chuỗi nhà hàng Nan n Kabab và Bánh mì Halal.
Thị trường Halal toàn cầu hiện có hơn 2 tỷ người Hồi giáo và dự kiến đạt quy mô 7.700 tỷ USD vào năm 2025 và 10.000 tỷ USD trước năm 2030. Dân số Hồi giáo dự kiến đạt gần 3 tỷ người vào năm 2050, chiếm gần 30% dân số toàn cầu. Chi tiêu cho các sản phẩm Halal của các nước Hồi giáo đang có xu hướng tăng lên, mở rộng ra ngoài phạm vi các quốc gia Hồi giáo.
Để khai thác tiềm năng của thị trường này, Việt Nam đã xây dựng định hướng chiến lược, bao gồm đề án tăng cường hợp tác quốc tế, phát triển ngành Halal đến năm 2030, thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia, cũng như hoàn thiện các quy định pháp lý và tiêu chuẩn về Halal.

Tuy nhiên, việc tham gia thị trường Halal không phải là điều dễ dàng đối với các doanh nghiệp. Chi phí để đạt được chứng nhận Halal khá cao, từ 2.000 đến 5.000 USD. Bên cạnh đó, chứng nhận có thể bị thu hồi nếu cơ quan quản lý phát hiện sai sót trong quá trình kiểm tra.
PGS.TS Hoàng cho rằng thách thức lớn nhất của Việt Nam là sự thiếu vắng một hệ sinh thái toàn diện cho ngành công nghiệp Halal, bao gồm hệ sinh thái sản xuất, dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Ví dụ, việc thiếu khu vực lưu trữ và bảo quản riêng cho hàng hóa Halal có thể dẫn đến lây nhiễm chéo với hàng Haram (sản phẩm không tuân thủ tiêu chuẩn Halal). Doanh nghiệp cũng đang thiếu cơ chế hỗ trợ từ Chính phủ để phát triển và thâm nhập sâu hơn vào thị trường Halal.
So với các nước láng giềng đã phát triển ngành Halal từ vài chục năm trước, Việt Nam đang có phần chậm chân. PGS.TS Hoàng đề xuất nâng đề án quốc gia về ngành Halal thành một chiến lược, trong đó tập trung nguồn lực để phát triển ngành này trong ngắn hạn và dài hạn.
Các chuyên gia cũng khuyến nghị cần xây dựng một cộng đồng ngành Halal Việt Nam. TS Aemin từ RMIT nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức và giáo dục về Halal thông qua các kênh truyền thống và các nền tảng mạng xã hội như TikTok và Instagram.
Admin
Nguồn: VnExpress