Bút ký Hữu Châu (kỳ ba): ‘Người phụ nữ tôi kính trọng nhất’

Trong không gian tĩnh lặng, tôi bừng tỉnh giấc giữa bốn bề màn mùng quen thuộc. Mùi dầu gió thoang thoảng hòa quyện cùng hương trầu nồng ấm đánh thức mọi giác quan. Đó là mùi hương của Bà Nội, người mà đêm qua tôi đã ngủ cùng phòng.

Một giấc ngủ sâu và sảng khoái. Tôi chợt nhớ, đêm khuya, cổ họng tôi khẽ ngứa ngáy, cơn ho húng hắng kéo đến. Rồi, chiếc mùng bên cạnh rung nhẹ, bóng dáng Nội dịu dàng tiến lại, vén mùng, nhẹ nhàng xoa dầu lên ngực tôi. Từng cử động khẽ khàng, ấm áp. Tôi hé mắt nhìn Bà, cảm giác hạnh phúc trào dâng, xen lẫn chút rụt rè, e ngại. Tôi vờ như đang ngủ say, để mặc Bà cẩn thận vén lại mùng cho tôi.

Và tôi lại chìm vào giấc mơ êm đềm, giấc mơ của tuổi thơ hạnh phúc.

Bà Nội của tôi, người mà tôi luôn tin rằng, Thượng Đế đã ban tặng riêng cho tôi.

Từ khi nhận thức được mọi điều đến nay, khi tuổi đã xế chiều, tôi vẫn luôn suy nghĩ về tình cảm đặc biệt này. Không ngôn từ nào có thể diễn tả hết tình yêu tôi dành cho Bà. Chỉ có câu nói “Bà Nội là người Trời đã ban riêng cho tôi” mới phần nào lột tả được tình cảm sâu sắc ấy, mới có thể chạm đến niềm hạnh phúc vô bờ bến mà tôi may mắn có được trong cuộc đời này, mới có thể giãi bày với thế gian về mối nhân duyên đặc biệt giữa tôi và Bà.

Bà có rất nhiều cháu. Mỗi khi Bà đi xem hát, đi làm, thường có một, hai đứa “bám” theo nếu chúng được nghỉ học hoặc cha mẹ vắng nhà. Bà yêu thương từng đứa cháu một cách minh mẫn và bao la, không hề nhầm lẫn hay trộn lẫn tình cảm. Bà không yêu chung chung vì quá bận rộn hay vì cháu đông đúc. Tình yêu Bà dành cho các cháu tuy không phô trương nhưng lại vô cùng sâu sắc. Khi dắt cháu đi trên phố, Bà luôn che chở, bảo vệ chúng khi qua đường, ý tứ hướng về phía xe cộ để chắn đỡ, đến mức sau này, hành động đó trở thành một thói quen vô thức của tôi mỗi khi đi cùng ai đó.

Có lẽ không chỉ riêng tôi, mà bất cứ ai trong gia đình cũng đều cảm nhận được niềm hạnh phúc ấy: Bà luôn ngồi ở vị trí đầu bàn ăn dài rộng của gia đình, nhưng vẫn là “người yêu” riêng của mỗi đứa con, đứa cháu. Dù Bà có vô vàn công việc phải lo toan, dù dưới ánh mắt trẻ thơ, “người yêu” ấy có vẻ nghiêm khắc, nghiêm trang.

Trái tim Bà dành cho mỗi đứa trẻ là một thế giới riêng biệt, như những cuốn sách khác nhau, kể những câu chuyện khác nhau.

Nghệ sĩ Hữu Châu ra mắt bút ký chân dung ở tuổi gần 60. Ảnh: Phanbook
Nghệ sĩ Hữu Châu ra mắt bút ký chân dung tuổi 60 (Ảnh: Phanbook). Ảnh: Internet

Tấm lòng của biển cả bao la.

Tình yêu lớn lao nhưng vô cùng riêng tư, hết sức trân trọng là vậy.

Ngày tôi chào đời, Bà đã chào đón tôi bằng chiếc khánh ngọc Dạ Minh Châu và một đoàn hát mới thành lập. Không ai biết trước tương lai, nhưng có lẽ Bà đã âm thầm gửi gắm vào tôi một điều gì đó. Chắc hẳn Bà đã nghĩ đến một lớp mầm non của gia đình, bởi thời điểm đó, đoàn Thanh Minh Thanh Nga đang trên đà hưng thịnh. So với những người cùng thời, Bà có thể không giỏi chữ nghĩa bằng họ, nhưng tầm nhìn và những giấc mơ của Bà thì không hề nhỏ bé.

Dù là con cháu của một đoàn hát, tôi vẫn được học hành đến nơi đến chốn. Bà kiên quyết yêu cầu ba má tôi phải cho con đi học. Để bù đắp cho sự nghiêm khắc đó, Bà dành cho tôi rất nhiều trìu mến. Đó là sự mềm mại kiên nghị mà tôi cảm nhận được mỗi khi ở gần Bà.

Tôi ham đọc sách cũng là nhờ Bà. Bà thường bảo tôi đọc sách cho Bà nghe. Cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Tam Quốc Chí. Có lẽ chỉ có tôi mới được Bà gọi đọc sách, có thể là để giữ tôi bên cạnh Bà. Dần dần, tôi biết cách đọc và diễn giải những câu chuyện phức tạp bằng giọng nói của mình. Tôi cảm nhận được sự nhẹ nhõm, thư giãn của Bà khi lim dim nằm nghe. Thỉnh thoảng, Bà dừng tay xỉa trầu và mỉm cười.

Bà là người ít khi bộc lộ tình cảm, rất ngại thể hiện tình yêu với con cháu và cũng không thích để con cháu vồ vập yêu thương mình. Bà thường dùng ngôn ngữ không lời, đặc biệt là ánh mắt và nụ cười nghiêm nghị, cùng với vài câu nói ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa. Khi tôi đã lớn, đi học trường sân khấu và trải nghiệm cuộc sống bên ngoài, tôi thường chạy thẳng vào phòng Bà, leo lên giường Bà nằm ngủ. Đây là một hành động đặc biệt, bởi gần như không ai trong nhà dám làm như vậy. Không ai dám tùy tiện ngồi lên giường Bà.

Nhưng với riêng tôi, Bà lặng lẽ chấp nhận, không hề la rầy.

Ôi, những khoảnh khắc đầm ấm của bà cháu tôi.

Bà Nội dịu hiền, Bà Nội thơm mùi cốt trầu, kể cho tôi nghe những câu chuyện trẻ con. Bàn tay Bà Nội dịu dàng xoa dầu trên ngực tôi. Còn Bà Nội uy nghi như một nữ tướng thì bận rộn chỉ huy nhiều mặt trận trong rạp hát, chưa về nhà. Bà ít cười, nhưng khi cười thì rất sảng khoái, đó là lúc con cháu cảm thấy Bà nhẹ nhõm và vui vẻ nhất.

Tôi yêu cả hai hình ảnh của một người phụ nữ đa đoan, tài giỏi, đảm lược và dịu dàng, trìu mến theo cách riêng của Bà. Những hình ảnh ấy sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí tôi.

Sau này, khi lớn lên, đối mặt với sóng gió, bão giông của cuộc đời, những lúc muốn gục ngã nhất, tôi dường như đã đưa tay vịn vào những ký ức về Bà.

Bà Nội ơi! Con nhớ Bà lắm, nhớ vô cùng.

Tôi nhớ hồi nhỏ, tôi tinh nghịch đến mức dụ dỗ mấy đứa bạn chui vào cái trống chầu trên lành dưới rách, đạo cụ của tuồng Thái hậu Dương Vân Nga. Bọn nó ngoan ngoãn ngồi yên dưới “mái nhà” chật hẹp đó, còn tôi thì bặm môi gõ liên hồi lên mặt trống căng bóng, vừa gõ vừa cười hả hê. Đến khi người lớn phát hiện ra, hốt hoảng kêu tôi dừng lại, lôi ra thì mấy đứa nhỏ kia đã mệt lả. Bà Nội đã đánh tôi một trận bằng roi mây, la mắng tôi không tiếc lời. Hiếm khi tôi thấy Bà nóng nảy đến mức dùng roi vọt với tôi như vậy. Chắc hẳn Bà đã kịp nhìn thấy mầm ác đang nhen nhóm trong đứa cháu cưng, một sự ác ý vô thức trỗi dậy trong một trò chơi. Bà đã ngăn chặn nó kịp thời, nếu không hậu quả sẽ rất khó lường.

Lần thứ hai, tôi gây họa và cũng bị Bà đánh. Năm mười mấy tuổi, tôi trổ mã, trông cũng ra dáng trai tráng, đủ tiêu chuẩn đóng vai lính, vai quân hầu. Dù sao thì tôi cũng ngon lành hơn vợ chồng anh Rớt, người làm hậu đài. Chị Rớt được Bà Nội cho theo đoàn, nhận vài vai lặt vặt để có lương. Chị còn bỡ ngỡ nên cứ bám chặt lấy tôi. Tôi đi đâu chị theo đó, tôi làm gì, chị làm theo. Hôm đó, chúng tôi đóng vai dân làng bị quân giặc đuổi bắt. Chị trang điểm kỹ lưỡng, sắp bước ra sân khấu, hồi hộp níu áo tôi:

Bầu Thơ bên con gái - nghệ sĩ Thanh Nga. Ảnh tư liệu
Ảnh tư liệu: Bầu Thơ và con gái, nghệ sĩ Thanh Nga. Ảnh: Internet

– Châu, Châu, giờ làm gì đây em!

– Chị cứ nhìn em, làm theo em là được. Khi quân giặc ào tới, tôi dụi mắt nhìn chúng cho rõ, thật điệu nghệ.

Ngay cả việc dụi mắt cũng phải có “nghề” để mặt mũi không bị lem nhem. Chị thì không như vậy. Chị ngoáy cật lực vài cái, khiến cả mặt chị đen thui, phấn son, lông mi giả… trộn lẫn vào nhau, thành một hình ảnh nửa hề, nửa đào thương sân khấu.

Bà Nội biết tôi đã nhen nhóm sự tinh quái, giúp người không đến nơi đến chốn. Bà lại cho tôi một trận đòn.

Ôi! Bà ơi! Giờ Bà có thể yên tâm rồi nhé. Tình yêu của Bà và những sóng gió cuộc đời đã giúp con trở thành một người tốt.

Mọi người cũng kể với con rằng họ nhớ Bà. Người thì nhớ dáng Bà lừng lững, một mình ở góc trái sân khấu trước giờ mở màn. Bà ngồi trên chiếc ghế salon, giỏ trầu và mâm trà đã nguội để trên chiếc bàn nhỏ hình chữ nhật. Bà ngồi đó, vừa ăn trầu vừa quan sát. Bà dùng con mắt tinh tường để biết hết sự chuẩn bị đang diễn ra trong hậu trường, mọi việc đang đâu vào đấy, cho một đêm diễn bình thường.

Có người thì nhớ những kỷ niệm hú hồn, toát mồ hôi khi phạm lỗi. Bởi vì Bà luôn đến sớm, ngồi ngay cửa ra vào nội bộ, nên ai đi ngang cũng nhanh nhẹn chào Bà. Còn ai đi trễ thì… Bà nghiêm khắc và công bằng lắm. Má Ba Thanh Nga và chú Sáu Bảo Quốc mà có lỗi là Bà phạt luôn, chứ không nể nang, thiên vị gì hết.

Có người kể rằng, vì đi trễ, trốn Bà, họ phải đi vòng vòng trà trộn ở cửa khán giả, hy vọng Bà không nhìn thấy.

Có người luôn khép nép, ngồi nói chuyện với Bà chỉ dám ngồi mé mé, sợ Bà một phép, nhưng lại yêu Bà lắm, vì Bà chăm lo đến miếng cơm manh áo cho từng người. Thiếu đủ, mưa bão, súng đạn chiến tranh… đoàn có mở màn được hay phải nghỉ hát, thì những mâm “cơm hội” vẫn luôn tươm tất, lương công nhân nghệ sĩ vẫn được chu toàn. Trong nhiều lúc đoàn gặp khó khăn, Bà lặng lẽ cầm cố nhà cửa, duy trì đoàn. Ai cần đến Bà, chỉ cần gọi: “Chị Năm ơi! Tới cứu em với!” thì dù là việc khó đến đâu, Bà cũng có mặt, không bao giờ bỏ ai giữa đường.

Bà đã làm nên một đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga danh tiếng lẫy lừng bằng sức lực và trí tuệ phi thường của một người phụ nữ, vượt xa cả những gì Ông Nội Năm Nghĩa mong đợi. Chắc hẳn Ông đã rất vui mừng và hãnh diện về Bà, phải không Ông?

Bà ơi! Rồi mỗi đêm Bà trở về nhà, hoặc lặng lẽ trong một góc mùng tạm bợ khi đi lưu diễn, Bà có cô đơn không? Bà đã giấu kín trong lòng những nỗi buồn đau, những thăng trầm thế thái nhân tình, những thị phi đố kỵ, những công việc bộn bề, những lo toan rối rắm, những nỗi lo chạy tiền, chạy bạc… Bà đã dựa vào đâu để nuốt nước mắt vào trong?

Trong những tháng năm dài tuổi già bệnh tật, luôn cận kề với những oan nghiệt và tai ách, mất nhà cửa, tài sản, mất đoàn hát, bị phủ nhận, bị cướp công, đau đớn sinh ly tử biệt với con cháu. Bà đã phải gánh chịu quá nhiều khổ đau, vậy mà Bà đã làm thế nào? Nhưng trong hoàn cảnh đó, tôi thấy Bà lúc nào cũng có thể khuyến khích và an ủi người khác:

“Ai cũng khóc thì còn ai có thể dựa vào ai mà nguôi ngoai?”

Mỗi lần thấy tôi khóc, Bà hay nói vậy, còn thêm câu phía trước: “Mình là trụ cột gia đình thì cố để không khóc”. Bà đã mặc định phong cho tôi là một cây cột non. Dù tôi khóc ra ngoài hay khóc lặng lẽ trong lòng, Bà đều thấy và biết.

Bà Nội có dựa vào đôi vai nhỏ bé của thằng Châu ngồi đọc sách, để Bà vừa ăn trầu vừa thanh thản lắng nghe không?

Hay mỗi chiều ra đoàn hát, tôi thường xếp giỏ trầu cau cho Nội. Một đêm Nội ăn bao nhiêu trầu, bao nhiêu cau, một miếng lớn cỡ nào, tôi đều biết rõ.

Cảnh tượng thần tiên và bình yên quá, phải không Nội?

Sau khi trải qua gần hết những thăng trầm của cuộc đời, tôi thấy quãng thời gian đau đớn nhưng cũng may mắn nhất của mình là được đi chùa với Bà. Đó là khoảng thời gian đen tối sau khi Má Ba và anh Hải mất. Tôi không hiểu hết những điều Bà cầu xin. Tôi đội sớ và cầu nguyện cùng Bà, nhìn mãi mái tóc trắng phau và đôi vai gầy của Bà.

Bà đã cho tôi hiểu về cội nguồn của mình. Trước khi mất, khi còn chút sức tàn, Bà đã dẫn tôi đến một ngôi chùa ở Thủ Thiêm. Tại đây, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy chân dung của ông Hội đồng Lợi, Ông Nội ruột của tôi. Tôi nghẹn ngào lạy chào Ông. Bà đã thờ Ông ở đây rất nhiều năm. Tôi đã thỉnh được tấm hình của Ông về, thật may mắn vì sau đó khu đất của ngôi chùa bị giải tỏa. Tôi có được di ảnh quý giá của Ông, mỗi lần ngắm nhìn, tôi không khỏi ngỡ ngàng vì anh Hải và Hữu Lộc sao giống Ông đến vậy, như “đúc từ một khuôn ra”.

Tôi thèm được ở gần Bà Nội. Dù đi đâu, hoặc đang bôn ba ngoài đường, tôi cũng muốn quay về nơi Bà đang ở (vì sau này, do ngôi nhà lớn không còn, Bà phải chuyển chỗ ở, có lúc về ở nhà Má Ba sau khi Má Ba mất).

Khi Bà đau ốm thì tôi đã lớn, đã là một chàng trai. Tôi phải vất vả kiếm sống để lo cho gia đình nhỏ trong căn nhà lá. Nhưng tôi tự nguyện chăm sóc Bà, ở gần Bà, gần nhất có thể. Những việc như tắm rửa, lau chùi, vệ sinh tỉ mỉ… để Bà được dễ chịu, thoải mái, tôi đã làm rất kỹ lưỡng, rất nâng niu. Thật lòng mà nói, tôi không hề e ngại, ngượng ngùng hay cảm thấy dơ bẩn gì hết. Trái lại, tôi hiểu rõ đó là những khoảnh khắc quý giá như vàng trong cuộc đời tôi. Ngày Bà mất, khi xác Bà chưa liệm, tôi sợ kiến bu lên làm Bà đau, tôi đã nằm ngay cạnh Bà. Tôi khóc những giọt nước mắt nóng hổi bên Bà đang dần dần cứng lạnh.

Bà Nội ơi! Cháu thương Bà, thương yêu và nhớ Bà vô cùng. Cháu thương Bà nhất trên đời. Bà Nguyễn Thị Thơ đã đi xa. Bà là người phụ nữ tôi kính trọng nhất trên đời.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *