Triết lý ‘một nửa’: Giải mã thơ Trần Nhân Tông

Sau các buổi tọa đàm tại TP HCM và Hà Nội, nhà thơ, nhà nghiên cứu kiêm dịch giả Nhật Chiêu đã mang chủ đề “Đường Bụt đường hoa: Thơ ca Phật hoàng Trần Nhân Tông” đến với khán giả Huế vào ngày 29/6. Sự kiện thu hút sự tham gia của hàng trăm người, bao gồm giảng viên, nhà thơ, bác sĩ, võ sư và sinh viên.

Tại buổi nói chuyện, học giả Nhật Chiêu nhấn mạnh tính độc đáo trong thơ ca Trần Nhân Tông, đặc biệt là triết lý “một nửa” thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng Phật giáo (Thiền tông) và hiện thực cuộc sống. Vua Trần Nhân Tông (1258-1308), người sáng tác đa dạng thể loại từ thơ, phú, bài giảng, ngữ lục, văn xuôi đến văn thư ngoại giao, đã vận dụng các phạm trù đối lập như hữu hình – vô hình, thế tục – thanh tịnh, thực – hư, sắc – không, hữu – vô, động – tĩnh, xa – gần, vật chất – tinh thần, buồn – vui, đục – trong, ánh sáng – bóng tối. Tuy nhiên, mục đích của ông không phải là đối chọi, mà là chuyển hóa chúng thành phương tiện để ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, làm nổi bật triết lý “cư trần lạc đạo” – sống giữa đời thường mà vẫn giữ được sự thanh tịnh, an lạc trong tâm hồn.

Nhà thơ, nhà văn, dịch giả Nhật Chiêu tại tọa đàm thi ca sáng 29/6. Ông có hơn 40 năm nghiên cứu, giảng dạy và viết lách. Ông từng xây dựng giáo trình cho sinh viên gồm Ba nghìn thế giới thơm (biên khảo), Những kiệt tác văn chương thế giới (viết chung), Basho và thơ Haiku (biên khảo), Nhật Bản trong chiếc gương soi (biên khảo), Đại cương văn hóa phương Đông (viết chung). Ở mảng văn xuôi, Nhật Chiêu sáng tác Mưa mặt nạ, Người ăn gió và quả chuông bay đi. Về thi ca, ông ra mắt Lời tiên tri của giọt sương (tập truyện song ngữ Việt - Anh), Tôi là một kẻ khác (thơ tượng quẻ), Người về với Như (thơ ca tương chiếu). Ảnh: Vỹ Cầm
Nhà thơ, nhà văn, dịch giả Nhật Chiêu tại tọa đàm thi ca sáng 29/6. Ông có hơn 40 năm nghiên cứu, giảng dạy và viết lách. Ông từng xây dựng giáo trình cho sinh viên gồm Ba nghìn thế giới thơm (biên khảo), Những kiệt tác văn chương thế giới (viết chung), Basho và thơ Haiku (biên khảo), Nhật Bản trong chiếc gương soi (biên khảo), Đại cương văn hóa phương Đông (viết chung). Ở mảng văn xuôi, Nhật Chiêu sáng tác Mưa mặt nạ, Người ăn gió và quả chuông bay đi. Về thi ca, ông ra mắt Lời tiên tri của giọt sương (tập truyện song ngữ Việt – Anh), Tôi là một kẻ khác (thơ tượng quẻ), Người về với Như (thơ ca tương chiếu). Ảnh: Vỹ Cầm. Ảnh: Internet

Thay vì đi sâu phân tích một khía cạnh, Trần Nhân Tông thường bỏ ngỏ, tạo ra những khoảng trống để người đọc tự do cảm nhận, chiêm nghiệm, liên tưởng và tìm ý nghĩa riêng. Ví dụ, trong bài “Xuân vãn” (Cuối xuân), ông đề cập đến phạm trù sắc – không, khuyến khích người đọc tự hình dung vẻ đẹp của mùa xuân, hướng đến một không gian nghệ thuật đậm chất Thiền.

Nhiều người yêu văn thơ tại Huế dự buổi trò chuyện của học giả Nhật Chiêu. Ảnh: Vỹ Cầm
Nhiều người yêu văn thơ tại Huế dự buổi trò chuyện của học giả Nhật Chiêu. Chương trình diễn ra ở “Không gian Sách và văn hóa” bên bờ sông Hương (số 23-25 Lê Lợi, TP Huế). Ảnh: Vỹ Cầm. Ảnh: Internet

Cụm đối lập xa – gần, nửa nắng – nửa râm được thể hiện trong bài “Lên núi Bảo Đài”, còn yếu tố có – không được khai thác trong “Thiên Trường vãn vọng” (Ngắm cảnh chiều Thiên Trường). Bài thơ này mô tả khung cảnh chiều quen thuộc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, gợi lên một bức tranh nửa thực nửa hư, mờ ảo nhưng vẫn rõ nét hình ảnh những cánh cò trắng đang đáp xuống đồng.

Trạng thái tĩnh – động, mờ ảo – chi tiết cũng được thể hiện qua các tác phẩm “Trăng”, “Chiều thu ở Vũ Lâm”, “Tức sự”, và “Cảnh chiều ở Châu Lạng”. Dù hướng đến sự nhất thể và toàn diện, Trần Nhân Tông vẫn đề cao triết lý “một nửa”, như trong câu “Nửa ta đi kiếm, nửa ta còn lại hay Nửa ngày rồi tự tại thâm tâm” (trích “Cư trần lạc đạo phú”).

Nhà thơ Tâm Nhiên ngâm thơ về Phật hoàng Trần Nhân Tông
Nhà thơ Tâm Nhiên ngâm bản “Trầm hùng Trúc Lâm đại sĩ” thể hiện sự ngưỡng mộ dành cho vua Trần Nhân Tông. Video: Vỹ Cầm. Ảnh: Internet

Nhật Chiêu chia sẻ rằng khi đến thăm đền thờ Trần Nhân Tông tại Huế, ông đã cảm hứng sáng tác sáu câu thơ, gợi nhớ đến tứ thơ nổi tiếng của Phật hoàng về khung cảnh rừng thông bên nắng bên râm.

Nhật Chiêu khẳng định Phật hoàng Trần Nhân Tông có công khai sáng nền văn chương tiếng Việt, đặc biệt với hai bài phú dài bằng chữ Nôm là “Cư trần lạc đạo” và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca”. Ông đặc biệt tâm đắc với đoạn kết trong “Cư trần lạc đạo”: “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên/ Đói thì ăn, mệt ngủ yên/ Trong nhà có báu thôi tìm kiếm/ Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.

Trước đó, Nhật Chiêu đã ca ngợi tầm vóc vĩ đại của Phật hoàng, người lên ngôi Hoàng đế ở tuổi 20 sau ba lần từ chối ngai vàng. Trần Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân đánh tan quân Nguyên Mông hai lần và có nhiều đóng góp cho chính trị, văn hóa, xã hội trong 15 năm trị vì. Đến năm 35 tuổi, ông nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông và xuất gia tại chùa Hoa Yên – Yên Tử, khai sinh thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử.

Trong buổi trò chuyện, Nhật Chiêu cũng nhắc đến các nhân vật lịch sử liên quan đến Trần Nhân Tông như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Huyền Trân công chúa, con gái của vua, người đã kết hôn với vua Chiêm Thành để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Câu chuyện về Huyền Trân công chúa nhận được sự quan tâm đặc biệt từ khán giả.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *