Năm ngoái phát hiện có khối u ở ngực phải nhưng chủ quan không đi khám, đến khi khối u lớn dần và gây đau nhức, chị Muội, 41 tuổi, mới đến Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM để kiểm tra. Kết quả siêu âm và chụp nhũ ảnh cho thấy khối u đã có kích thước 5cm và có mạch máu nuôi. Sinh thiết xác định chị mắc ung thư vú giai đoạn 3, thể nội tiết.
Điều đáng lo ngại là chị Muội không phải là người đầu tiên trong gia đình mắc căn bệnh này. Trước đó, dì ruột của chị được chẩn đoán ung thư vú vào năm 2010, em họ vào năm 2018, và chị ruột của chị Muội cũng phát hiện bệnh vào năm 2019 khi mới 45 tuổi. Mặc dù tất cả các thành viên trong gia đình đều đã được điều trị và tái khám định kỳ, nhưng các xét nghiệm vẫn chưa tìm ra đột biến gene gây ung thư vú.

Để điều trị cho chị Muội, các bác sĩ đã tiến hành hóa trị 6 đợt nhằm thu nhỏ kích thước khối u. Sau đó, chị trải qua phẫu thuật “5 trong 1” bao gồm cắt tuyến vú ung thư, đoạn nhũ phòng ngừa, nạo hạch nách, nội soi cắt buồng trứng và tái tạo hai bên ngực. Phương pháp này giúp bệnh nhân tránh phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật riêng lẻ, đồng thời tăng hiệu quả điều trị và giảm thiểu nguy cơ tái phát bệnh. Sau phẫu thuật, chị Muội sẽ cần xạ trị để ngăn ngừa nguy cơ tái phát.
ThS.BS.CKI Huỳnh Bá Tấn, khoa Ngoại Vú – Đầu Mặt Cổ, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cho biết, có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú, bao gồm đột biến gene di truyền và yếu tố gia đình (nhiều người trong gia đình mắc ung thư vú nhưng chưa xác định được đột biến gene). Yếu tố gia đình chiếm khoảng 5% trong số các ca bệnh ung thư vú. Những người có mẹ, chị gái hoặc con gái (người thân cấp một) mắc ung thư vú khi còn trẻ (dưới 50 tuổi) có nguy cơ mắc bệnh cao gấp đôi so với người bình thường. Nguy cơ trung bình gặp ở phụ nữ có người thân cấp hai (ông, bà, cô, chú, dì, cháu gái, cháu trai) mắc ung thư vú.
Bác sĩ Tấn cũng lưu ý rằng những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao thường có khả năng tái phát và di căn cao hơn. Để kiểm soát những nguy cơ này, cần áp dụng nhiều phương pháp phối hợp như hóa trị, xạ trị, đoạn nhũ phòng ngừa, cắt buồng trứng hoặc sử dụng thuốc nội tiết để ngăn chặn cơ thể sản xuất hormone (đặc biệt đối với ung thư vú thể nội tiết).
Để chủ động bảo vệ sức khỏe, bác sĩ Tấn khuyến cáo phụ nữ từ 40 tuổi nên tầm soát ung thư vú hàng năm. Đối với những người có nguy cơ cao (tiền sử gia đình, đột biến gene BRCA…), việc tầm soát nên bắt đầu trước 40 tuổi. Đặc biệt, nếu trong gia đình có mẹ mắc ung thư vú, con gái nên tầm soát sớm hơn 10 năm so với độ tuổi phát hiện bệnh của mẹ.
Admin
Nguồn: VnExpress