Mỗi lần lái xe tải 19 tấn chở hàng từ miền Đông đi các tỉnh miền Trung, anh Nguyễn Văn Sơn (40 tuổi, quê Đồng Nai) luôn cảm thấy căng thẳng khi đi qua cao tốc Vĩnh Hảo – Phan Thiết. Tuyến đường này có hai làn xe mỗi bên, nhưng lại thiếu làn dừng khẩn cấp, tiềm ẩn nguy cơ tai nạn cao do xe được phép chạy với vận tốc 90 km/h.
Anh Sơn chia sẻ, mặc dù cao tốc có các điểm dừng khẩn cấp, nhưng khoảng cách giữa chúng lại quá xa, từ 4 đến 5 km. Điều này gây khó khăn khi xe gặp sự cố giữa đường và không thể di chuyển đến vị trí an toàn. Tài xế buộc phải dừng xe ngay trên làn đường đang chạy, làm tăng nguy cơ bị xe khác tông từ phía sau, đặc biệt là vào ban đêm.

Cao tốc Vĩnh Hảo – Phan Thiết, với chiều dài hơn 100 km, chạy qua tỉnh Bình Thuận, là một phần của trục cao tốc Bắc – Nam phía Đông, kết nối cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết và Cam Lâm – Vĩnh Hảo. Từ khi được đưa vào khai thác vào tháng 5/2023, tuyến đường này đã trở thành huyết mạch giao thông quan trọng giữa TP HCM, Đồng Nai và các tỉnh miền Trung. Lưu lượng xe tăng nhanh, nhưng do đang trong giai đoạn đầu tư phân kỳ và thiếu làn dừng khẩn cấp, đã xảy ra nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng.
Điển hình là vụ tai nạn xảy ra vào đêm 8/7, khi một xe khách chở 41 người từ Khánh Hòa vào TP HCM bị nổ lốp trên cao tốc Vĩnh Hảo – Phan Thiết, đoạn qua xã Hàm Liêm, tỉnh Bình Thuận, và phải dừng lại. Một xe giường nằm chạy phía sau đã tông vào xe khách đang dừng, khiến tài xế và phụ xe của xe giường nằm tử vong khi xuống kiểm tra. Nhiều hành khách trên xe khách cũng bị thương. Trước đó, trên tuyến cao tốc này cũng đã xảy ra nhiều vụ tai nạn khác.
Không chỉ riêng đoạn đường này, nhiều tuyến cao tốc khác có 4 làn xe hạn chế (chưa có làn dừng khẩn cấp) như Trung Lương – Mỹ Thuận, Vĩnh Hảo – Cam Lâm, Cam Lâm – Nha Trang cũng gây áp lực lớn cho các tài xế. Thêm vào đó, một số tuyến chỉ có hai làn xe và chưa có dải phân cách giữa như Cam Lộ – La Sơn, La Sơn – Túy Loan, càng làm tăng nguy cơ tai nạn. Vào tháng 2/2024, trên cao tốc Cam Lộ – La Sơn đã xảy ra một vụ va chạm giữa xe 7 chỗ và xe container khiến ba mẹ con thiệt mạng.
Với gần 20 năm kinh nghiệm lái xe đường dài, tài xế Hữu Khoa (50 tuổi, quê Lâm Đồng) cho biết, các đoạn cao tốc Bắc – Nam được đưa vào sử dụng đã giúp rút ngắn đáng kể quãng đường và thời gian di chuyển. Tuy nhiên, nhiều đoạn đường còn nhỏ hẹp và thiếu làn dừng khẩn cấp, khiến ông luôn phải “tập trung cao độ” để kiểm soát rủi ro.
Ông Khoa giải thích rằng, khi xe gặp sự cố và phải dừng trên đường trong điều kiện tầm nhìn hạn chế như ban đêm, sương mù hoặc mưa lớn, việc bật đèn hay đặt biển cảnh báo phía sau cũng khó đảm bảo an toàn nếu không có làn dừng khẩn cấp. Những đoạn đường đèo dốc, cua hẹp lại càng nguy hiểm hơn.

“Chỉ cần một khoảnh khắc mất tập trung cũng có thể ảnh hưởng đến tính mạng của hành khách và bản thân”, ông Khoa nói. Ông cũng cho rằng, ngoài nguy cơ tai nạn, cao tốc nhỏ hẹp còn dễ gây ùn tắc và gây khó khăn cho việc cứu hộ khi có xe gặp sự cố. Do đó, ông mong muốn các cơ quan chức năng sớm mở rộng những đoạn cao tốc chưa đảm bảo, bổ sung làn dừng khẩn cấp và trạm dừng nghỉ. Trước mắt, ông đề xuất tăng cường tuần tra và xử lý các xe vi phạm, vì ngoài những bất cập về hạ tầng, việc nhiều xe chạy ẩu và quá tốc độ cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn.
Đại diện Đội 6 (Cục CSGT), đơn vị phụ trách đoạn cao tốc Vĩnh Hảo – Phan Thiết, cho biết đơn vị này tổ chức tuần tra thường xuyên 24/24 trên toàn tuyến, thay ca mỗi 8 tiếng để giám sát, xử lý các xe vi phạm và đảm bảo an toàn. Đội 6 cũng phối hợp với các lực lượng khác triển khai nhiều chuyên đề riêng theo kế hoạch của Cục CSGT. Tuy nhiên, đơn vị này cũng thừa nhận rằng việc thiếu làn dừng khẩn cấp trên cao tốc gây ra một số bất cập.

Để giảm thiểu rủi ro, CSGT khuyến cáo chủ xe và tài xế trang bị thêm các phương tiện bảo hộ như áo phản quang và chóp nón báo hiệu. “Khi xe gặp sự cố, tài xế nên mặc áo phản quang và đặt chóp nón báo hiệu từ xa, cách khoảng 150 m để các xe phía sau có thể nhận biết sớm”, đại diện Đội 6 cho biết.
Hiện nay, cả nước có hơn 2.000 km đường cao tốc, trong đó có 654 km thuộc 11 dự án thành phần nằm trên trục Bắc – Nam phía Đông giai đoạn một (2017-2020), đã được đưa vào khai thác trong những năm gần đây. Giai đoạn hai (2021-2025) cũng đang được triển khai với tổng chiều dài khoảng 721 km, trong đó dự kiến có 4 dự án thành phần sẽ hoàn thành vào cuối năm nay.
Do khó khăn về nguồn vốn, nhiều đoạn đường được đầu tư phân kỳ với quy mô 2 hoặc 4 làn xe, chưa có làn dừng khẩn cấp liên tục. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác đã phát sinh nhiều bất cập, do đó Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành liên quan nghiên cứu phương án mở rộng, bao gồm cả việc triển khai theo hình thức đối tác công tư (PPP) sau khi nhiều doanh nghiệp tư nhân đề xuất tham gia.
Hiện tại, ngoài hai đoạn Cao Bồ – Mai Sơn và Cam Lộ – La Sơn đang được nâng cấp, Bộ Xây dựng đã đề xuất mở rộng 15 đoạn cao tốc Bắc – Nam đầu tư công, thuộc hai giai đoạn 2017-2020 và 2021-2025 (không bao gồm các dự án BOT do doanh nghiệp khai thác).
Bộ Xây dựng đưa ra hai phương án: Gộp chung 15 đoạn thành một dự án tổng thể với tổng chiều dài khoảng 966 km, tổng vốn gần 128.300 tỷ đồng (chưa tính lãi vay). Phương án này giúp đồng bộ trong quản lý và vận hành, nhưng gặp khó khăn do tổng vốn quá lớn, khó tìm nhà đầu tư đủ năng lực tài chính. Ngoài ra, do các đoạn cao tốc có thời điểm thi công khác nhau, việc mở rộng đồng loạt có thể phát sinh xung đột về pháp lý liên quan đến công tác bảo hành của nhà thầu.
Phương án còn lại là chia 15 đoạn cao tốc thành hai dự án theo hai khu vực. Dự án 1 từ Mai Sơn đến Cam Lộ, dài khoảng 415 km, gồm 8 đoạn: Mai Sơn – quốc lộ 45, quốc lộ 45 – Nghi Sơn, Nghi Sơn – Diễn Châu, Bãi Vọt – Hàm Nghi, Hàm Nghi – Vũng Áng, Vũng Áng – Bùng, Bùng – Vạn Ninh, Vạn Ninh – Cam Lộ. Dự án 2 từ Quảng Ngãi đến Dầu Giây, dài 551 km, gồm 7 đoạn: Quảng Ngãi – Hoài Nhơn, Hoài Nhơn – Quy Nhơn, Quy Nhơn – Chí Thạnh, Chí Thạnh – Vân Phong, Vân Phong – Nha Trang, Vĩnh Hảo – Phan Thiết, Phan Thiết – Dầu Giây.
Trong công văn gửi các Bộ Tài chính và Xây dựng, Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) đánh giá phương án 2 khả thi hơn. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình thực tế và nguồn lực, VEC đề xuất tiếp tục chia thành hai giai đoạn đầu tư.
Giai đoạn 2026-2028 sẽ mở rộng trước 5 tuyến, gồm ba tuyến thuộc Dự án 1 (từ Mai Sơn đến Diễn Châu, tổng chiều dài 156 km) và hai đoạn thuộc Dự án 2 (Vĩnh Hảo – Phan Thiết và Phan Thiết – Dầu Giây, dài 200 km). Giai đoạn hai (dự kiến sau năm 2028) sẽ tiếp tục nâng cấp 10 đoạn còn lại, do lúc này đã kết thúc thời gian bảo hành và lưu lượng giao thông trên tuyến tăng cao.
Trong định hướng triển khai, VEC kiến nghị giao đơn vị này phối hợp với Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cùng các nhà đầu tư khác nghiên cứu mở rộng các đoạn cao tốc thuộc Dự án 1. Đối với Dự án 2, VEC đề xuất giao các nhà đầu tư khác có đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện.
Trường hợp được giao triển khai Dự án 1, VEC kiến nghị giữ lại phần lợi nhuận còn lại của tổng công ty trong giai đoạn 2025-2030 (khoảng 4.769 tỷ đồng) để bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu tham gia dự án. Đồng thời, đơn vị này cũng đề xuất cho phép doanh nghiệp dự án thu phí trên các tuyến đầu tư công trong giai đoạn trước sau khi lựa chọn nhà đầu tư triển khai dự án mở rộng. Giải pháp này sẽ giúp giảm áp lực cho ngân sách hỗ trợ dự án.
Admin
Nguồn: VnExpress