Tại Hội nghị chuyên gia về rối loạn nhịp tim toàn quốc 2025 diễn ra ngày 19/7, TS.BS. Phạm Trần Linh, Phó chủ tịch Phân hội Nhịp tim Việt Nam, đã chia sẻ những thông tin quan trọng về tình hình và phương pháp điều trị rối loạn nhịp tim hiện nay. Sự kiện này là cơ hội để các chuyên gia kết nối, mở rộng hợp tác, từ đó nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa các biến chứng do rối loạn nhịp tim gây ra tại Việt Nam.

Theo TS.BS. Phạm Trần Linh, bệnh tim mạch đang có xu hướng gia tăng và là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Trong số các bệnh lý tim mạch, rối loạn nhịp tim nổi lên như một vấn đề nguy hiểm và phổ biến. Hiểu một cách đơn giản, rối loạn nhịp tim là tình trạng tim đập không đều, không theo thứ tự, khiến tim không thể hoạt động bình thường. Bệnh được chia thành hai loại chính: rối loạn nhịp tim nhanh và rối loạn nhịp tim chậm.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính, các dạng rối loạn nhịp tim phổ biến như rung nhĩ, cuồng nhĩ, nhịp nhanh thất, nhịp chậm, block nhĩ thất… đang ảnh hưởng đến hàng chục triệu người trên toàn cầu. Rung nhĩ, dạng rối loạn nhịp phổ biến nhất, ước tính ảnh hưởng đến khoảng 33 triệu người và là nguyên nhân của 15-20% tổng số ca đột quỵ do huyết khối. Tại Việt Nam, tỷ lệ rung nhĩ ở người trên 60 tuổi dao động từ 1-2%, tuy nhiên, con số thực tế có thể cao hơn do việc tầm soát còn hạn chế. Riêng năm 2024, đã có 38.000 ca rung nhĩ mới được phát hiện, tăng hơn 10.000 ca so với 5 năm trước.
TS.BS. Phạm Trần Linh nhấn mạnh: “Rối loạn nhịp là nhóm bệnh lý tim mạch phức tạp, tiềm ẩn nhiều biến chứng nguy hiểm nhưng dễ bị bỏ sót trong giai đoạn sớm”. Bệnh có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như suy tim, ngừng tim, sa sút trí tuệ, ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng khác, đột quỵ và nguy hiểm nhất là đột tử.
Các triệu chứng thường gặp của rối loạn nhịp tim nhanh bao gồm hồi hộp, đánh trống ngực. Trong khi đó, rối loạn nhịp tim chậm thường gây ra các triệu chứng như khó thở, đau ngực, nuốt nghẹn. Một số trường hợp có thể xuất hiện các cơn choáng khi thay đổi tư thế, nặng hơn là ngất xỉu rồi tự tỉnh lại sau vài phút.

Đáng lưu ý, nhiều người mắc rối loạn nhịp tim nhưng không có bất kỳ triệu chứng nào. Họ hoàn toàn không biết mình mắc bệnh cho đến khi đi khám sức khỏe định kỳ và được phát hiện thông qua điện tâm đồ. Hiện nay, có nhiều thiết bị hỗ trợ phát hiện sớm bệnh, bao gồm máy đo huyết áp điện tử, đồng hồ thông minh tích hợp phần mềm theo dõi nhịp tim, máy đo điện tâm đồ, và các thiết bị Holter điện tâm đồ ghi liên tục trong 24 giờ, 48 giờ hoặc thậm chí 7 ngày.
Tại hội nghị, TS. Tôn Thất Minh, Chủ tịch Phân hội Nhịp tim Việt Nam, đánh giá cao sự phát triển của kỹ thuật điều trị rối loạn nhịp tim tại Việt Nam, cho rằng đã đạt đến trình độ tương đương với thế giới. Các bác sĩ Việt Nam đã làm chủ và thực hiện thành công hầu hết các kỹ thuật tiên tiến. Số lượng bác sĩ và cơ sở y tế chuyên điều trị rối loạn nhịp tim cũng tăng lên đáng kể. Dự kiến đến năm 2025, cả nước sẽ có 66 bệnh viện và trung tâm can thiệp điều trị rối loạn nhịp, cùng với khoảng 170 bác sĩ chuyên sâu trong lĩnh vực này.
Về phương pháp điều trị, rối loạn nhịp tim có hai lựa chọn chính: dùng thuốc và can thiệp. Việc sử dụng thuốc có thể gây ra các tác dụng phụ không mong muốn. Đối với phương pháp can thiệp, tùy thuộc vào loại rối loạn nhịp tim cụ thể, bệnh nhân có thể được chỉ định sử dụng các thiết bị phù hợp để khôi phục chức năng tim.
Đối với bệnh nhân bị rối loạn nhịp nhanh như rung nhĩ, bác sĩ có thể áp dụng kỹ thuật triệt đốt điện sinh lý bằng năng lượng sóng radio, bóng lạnh hoặc từ xung. Một kỹ thuật mới hơn là cấy thiết bị hỗ trợ tim dưới da, bao gồm máy tạo nhịp tim và máy khử rung tim.
Để phòng ngừa rối loạn nhịp tim, các chuyên gia khuyến cáo người dân nên tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ trong việc kiểm soát các yếu tố nguy cơ như huyết áp, cholesterol máu, và cân nặng. Bên cạnh đó, cần duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, tránh xa khói thuốc lá và thuốc lá điện tử, đồng thời tích cực tham gia các hoạt động thể chất.
Admin
Nguồn: VnExpress