So sánh giá đồ ăn ở sân bay Việt Nam và quốc tế

Giá cả dịch vụ ăn uống tại các sân bay Việt Nam từ lâu đã là chủ đề gây tranh cãi trong cộng đồng du khách. Nhiều người cho rằng mức giá ở đây cao hơn đáng kể so với bên ngoài, trong khi chất lượng chưa tương xứng. So sánh với các sân bay trong khu vực như Thái Lan hay Singapore, sự khác biệt này càng trở nên rõ rệt.

Chị Thu Nga, một người thường xuyên công tác tại Thái Lan, chia sẻ kinh nghiệm rằng chị thường chọn ăn uống tại sân bay Suvarnabhumi của Thái Lan. Chị Nga dẫn chứng việc mua một ly trà sữa Thái cỡ lớn tại đây với giá khoảng 130.000 đồng, trong khi một ly cà phê sữa cỡ nhỏ tại sân bay Tân Sơn Nhất có giá lên tới 170.000 đồng. Chị Nga nhận xét, giá đồ ăn tại sân bay Suvarnabhumi có cao hơn bên ngoài nhưng không quá đáng kể, không đến mức gấp đôi hoặc gấp ba lần.

Một ví dụ khác, một phần xôi xoài tại sân bay Thái Lan có giá khoảng 155.000 đồng, đắt hơn bên ngoài khoảng 50.000 – 60.000 đồng. Món tom yum trong sân bay có giá khoảng 227.000 đồng, trong khi tại các quán ăn tầm trung gần khu Icon Siam Bangkok, món này có giá dao động từ 126.000 – 175.000 đồng.

Đồ ăn tại The Hainan Story ở khu Jewel, sân bay Changi, Singapore. Ảnh: Minh Ngọc
The Hainan Story Jewel Changi: Ẩm thực Singapore tại sân bay. Ảnh: Internet

Tháng 7 vừa qua, một bài đăng trên mạng xã hội của du khách Trà My về chiếc bánh mì giá 208.000 đồng tại sân bay Nội Bài đã gây ra nhiều tranh luận trái chiều, thu hút hàng chục nghìn lượt tương tác.

Nhiều du khách đồng tình rằng giá cả đồ ăn tại cả ga quốc nội và quốc tế của hai sân bay lớn là Nội Bài và Tân Sơn Nhất đều đắt gấp 2-4 lần so với bên ngoài, nhưng chất lượng lại không tương xứng. So với các nước trong khu vực, sự lựa chọn đồ ăn ở Việt Nam ít đa dạng hơn, và mức giá chênh lệch so với thị trường cũng lớn hơn.

Chị Minh Ngọc, một du khách khác, chia sẻ trải nghiệm tại sân bay Changi (Singapore) vào tháng 12/2024. Chị ghé nhà hàng The Hainan Story và gọi một phần cháo gà Hải Nam với giá khoảng 261.000 đồng, cao hơn khoảng 3 đôla Singapore so với chi nhánh ở Hillion Mall, nhưng chất lượng tương đương. Chị Ngọc so sánh, với số tiền đó, chị có thể mua một tô phở ở ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất hoặc Nội Bài, với mức giá cao gấp 3-4 lần so với thông thường.

Không chỉ ở ga quốc tế, chị Ngọc cho biết đồ ăn trong ga quốc nội cũng có giá cao so với chất lượng. Chị từng gọi một combo gồm phở, cơm tấm, đồ uống và tráng miệng ở ga quốc nội sân bay Tân Sơn Nhất với giá khoảng 380.000 đồng. Mức giá tối thiểu cho đồ ăn, thức uống tại ga quốc nội thường từ 70.000 đồng trở lên, và các món nóng như phở, cơm tấm có giá trên 100.000 đồng. Trong khi đó, bên ngoài sân bay, một phần cơm tấm hoặc phở có giá dao động từ 60.000 – 80.000 đồng.

Tuy nhiên, một số du khách lại cho rằng việc giá đồ ăn trong sân bay đắt đỏ là điều dễ hiểu, do chi phí thuê mặt bằng và vận chuyển phức tạp. Họ chấp nhận chi thêm tiền để được phục vụ ngay trong khu vực an ninh, tiết kiệm thời gian và công sức di chuyển. Mức giá cao được xem như một khoản phí cho sự tiện lợi này.

Theo Tiến sĩ Justin Pang từ Đại học RMIT Việt Nam, giá đồ ăn tại sân bay thường cao hơn do tính chất đặc thù và vị trí địa lý. Số lượng nhà hàng và quầy ăn uống trong sân bay hạn chế, trong khi nhu cầu của hành khách lại cao. Sân bay thường nằm ở khu vực xa trung tâm, dẫn đến chi phí vận chuyển và cung ứng nguyên liệu cao hơn, đẩy giá bán lên. Ở Việt Nam, mức chênh lệch giá đồ ăn giữa sân bay và thành phố dao động từ 10-50%, khiến người dân địa phương cảm thấy “xót ví”.

Ông Pang cũng cho rằng thực phẩm ở sân bay thường phục vụ khách du lịch, những người sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn và chấp nhận mức giá cao. Người dân địa phương thường khắt khe hơn về chất lượng và hương vị so với du khách.

Tiến sĩ Matt Kim, cũng từ Đại học RMIT Việt Nam, cho rằng chi phí thuê mặt bằng đắt đỏ là yếu tố chính đẩy giá đồ ăn tại sân bay lên cao. Việc phục vụ lượng khách lớn suốt ngày đêm và yêu cầu nhân viên có khả năng giao tiếp ngoại ngữ cũng làm tăng chi phí nhân sự. Tuy nhiên, ông Kim cho rằng ngay cả khi tính đến các yếu tố này, vẫn khó lý giải việc giá thực phẩm ở sân bay Việt Nam cao gấp hai đến ba lần so với bên ngoài. Điều này cho thấy có thể tồn tại yếu tố xã hội hoặc chiến lược định giá dựa trên giá trị cảm nhận.

Ông Kim cho rằng một số đơn vị có thể áp dụng mô hình định giá dựa trên giả định rằng hành khách sân bay có thu nhập cao và sẵn sàng trả nhiều tiền hơn. Chất lượng món ăn cũng có thể bị ảnh hưởng do nguồn nguyên liệu tươi không dễ tiếp cận, việc giao hàng gặp khó khăn, và việc chuẩn bị món ăn do nhiều nhân viên theo ca thực hiện, làm giảm tính nhất quán về hương vị.

Một số nhà hàng có thể không quá chú trọng sự hài lòng dài lâu của khách hàng vì cho rằng họ chủ yếu là khách du lịch, những người sẽ không quay lại.

Ông Kim cũng chỉ ra rằng tại nhiều sân bay quốc tế, các thương hiệu ẩm thực thường tự vận hành cửa hàng flagship để quảng bá thương hiệu, coi trọng sự hài lòng của khách hàng ngang với lợi nhuận. Một số sân bay quản lý trực tiếp khu ẩm thực, điều chỉnh giá thuê để tránh tình trạng đẩy giá quá cao. Quy trình đấu thầu minh bạch, gắn với phản hồi của khách hàng, cũng giúp giữ giá hợp lý và là tiêu chí gia hạn hợp đồng.

Tiến sĩ Pang cho rằng để phát triển dịch vụ ẩm thực sân bay thành công, cần biến sân bay thành tổ hợp đa chức năng, phục vụ cả khách du lịch và người dân địa phương, thu hút các thương hiệu F&B lớn đầu tư.

Ông Pang nhận định, trong khi Singapore xem sân bay là một điểm đến với các khu phức hợp tích hợp rạp chiếu phim, trung tâm mua sắm, khách sạn, nhà hàng cao cấp và không gian nghệ thuật, thì sân bay ở Việt Nam vẫn chủ yếu mang tính chức năng, tập trung vào di chuyển.

Tiến sĩ Pang cho rằng Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển đa dạng lựa chọn ẩm thực trong sân bay, đặc biệt là khi sân bay Long Thành đi vào hoạt động. Ngay từ khâu thiết kế, cần tiếp cận tổng thể, biến sân bay thành tổ hợp đa chức năng, mang đến trải nghiệm thẩm mỹ và tiện ích phong phú, kết hợp các khu mua sắm, ăn uống, điểm tham quan.

Ông Pang kết luận rằng nếu làm tốt, việc này sẽ nâng tầm chất lượng sân bay, tạo ra lợi ích cho cả du khách và doanh nghiệp F&B, giúp du khách được hưởng dịch vụ xứng đáng với chi phí bỏ ra, còn các doanh nghiệp có thêm cơ hội phát triển lâu dài và minh bạch hơn.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *