Một nghiên cứu gần đây cho thấy sự thiếu hụt đáng báo động trong nhận thức về bệnh béo phì tại Việt Nam. Nghiên cứu Action-Vietnam, công bố vào cuối tháng 6, chỉ ra rằng chỉ có 56% người mắc bệnh béo phì tự nhận thức được tình trạng của mình. Điều này cho thấy một khoảng trống lớn trong nhận thức cộng đồng, khi béo phì thường bị xem là do “thiếu ý chí” hoặc “lười vận động” thay vì một bệnh lý mãn tính cần điều trị chuyên môn.

Cách hiểu sai lệch này đẩy người bệnh vào vòng luẩn quẩn của tự trách, mặc cảm và né tránh thăm khám, khiến bệnh béo phì âm thầm tác động tiêu cực đến cả thể chất lẫn tinh thần.
PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Phẫu thuật tiêu hóa, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, đồng tác giả nghiên cứu, nhấn mạnh rằng rào cản trong điều trị béo phì bắt nguồn từ nhận thức chưa đầy đủ của người bệnh. Nhiều người không hiểu rõ mức độ bệnh của mình và ngần ngại trao đổi với bác sĩ về cân nặng. Họ thường tự vật lộn với việc giảm cân bằng chế độ ăn kiêng và tập luyện mà không có sự hỗ trợ chuyên môn, một phần do xấu hổ và lo sợ bị kỳ thị.
PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn cho biết thêm, người thừa cân, béo phì thường trì hoãn việc thăm khám, trung bình mất khoảng 5 năm trước khi tìm đến sự hỗ trợ y tế. Việc trao đổi thường chỉ bắt đầu khi bệnh nhân đã gặp phải các biến chứng nghiêm trọng liên quan đến béo phì. Sự thiếu giao tiếp sớm, thẳng thắn và thường xuyên giữa bác sĩ và bệnh nhân là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ béo phì ở Việt Nam tiếp tục gia tăng.
Đáng chú ý, ngay cả trong giới chuyên môn, 40% bác sĩ tham gia khảo sát Action-Vietnam cũng e ngại đề cập vấn đề béo phì với bệnh nhân vì sợ họ không hợp tác hoặc bị tổn thương tinh thần. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo y khoa hiện tại chưa trang bị đầy đủ kiến thức và công cụ cho bác sĩ trong việc điều trị béo phì, một bệnh lý mãn tính đòi hỏi sự phối hợp đa chuyên khoa như nội tiết, dinh dưỡng, tâm lý, phục hồi chức năng và can thiệp ngoại khoa. Điều này dẫn đến việc bệnh nhân thường chỉ nhận được những lời khuyên chung chung như “ăn ít hơn, tập thể dục nhiều hơn”.

PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn cảnh báo, số ca tử vong liên quan đến béo phì tại Việt Nam đã tăng gấp 6 lần từ năm 1990 đến 2019, từ 6.000 ca lên gần 38.000 ca. Tỷ lệ này cao hơn mức tăng trung bình toàn cầu và vượt qua nhiều quốc gia trong khu vực. Béo phì được xem là căn nguyên của nhiều bệnh không lây nhiễm nguy hiểm như tim mạch, tiểu đường, gan nhiễm mỡ và ung thư, những bệnh đang chiếm hơn 80% số ca tử vong tại Việt Nam.
Theo báo cáo World Obesity Atlas 2024, ước tính đến năm 2025, Việt Nam sẽ có gần 20 triệu người trưởng thành bị thừa cân, béo phì, và con số này có thể lên đến 25 triệu vào năm 2035. Điều này đồng nghĩa với việc cứ 5 người trưởng thành thì có một người phải đối mặt với tình trạng này.
World Obesity Atlas 2023 dự báo chi phí y tế trực tiếp liên quan đến béo phì tại Việt Nam sẽ đạt 569 triệu USD vào năm 2025, tăng gấp rưỡi so với năm 2020 (372 triệu USD), và có thể đạt 1,269 tỷ USD vào năm 2035. Báo cáo cũng ước tính gánh nặng kinh tế do béo phì gây ra có thể lên tới 16,282 tỷ USD, chiếm 2% GDP của Việt Nam vào năm 2035.
Tuy nhiên, hệ thống chăm sóc chuyên biệt cho bệnh béo phì hiện vẫn chưa theo kịp tốc độ gia tăng của bệnh. Chỉ có một vài đơn vị điều trị béo phì tập trung tại các bệnh viện lớn như Bệnh viện Nội tiết Trung ương, Bệnh viện 108 và Bệnh viện Tâm Anh.
Các chuyên gia khuyến nghị Việt Nam cần triển khai một chiến lược toàn diện để quản lý béo phì hiệu quả, từ giáo dục cộng đồng, đào tạo bác sĩ đến điều chỉnh chính sách y tế. Điều quan trọng nhất là thay đổi nhận thức của người dân, coi béo phì là một bệnh mãn tính nghiêm trọng cần được điều trị đúng cách và kịp thời, đồng thời xóa bỏ sự kỳ thị đối với người bệnh.
PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn kết luận, môi trường sống hiện đại với thực phẩm giàu năng lượng dễ tiếp cận và thói quen ít vận động đang góp phần làm gia tăng tỷ lệ thừa cân, béo phì. Do đó, cần nhìn nhận béo phì là một bệnh lý mãn tính nghiêm trọng và điều trị bài bản như các bệnh khác như tiểu đường hay tăng huyết áp. Việc điều trị cần có sự phối hợp đa chuyên khoa để tư vấn, theo dõi và can thiệp y khoa một cách nhất quán và khoa học, giúp người bệnh giảm thiểu biến chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm gánh nặng lâu dài cho xã hội.
Admin
Nguồn: VnExpress