Ho ra máu là một triệu chứng đáng lo ngại, thường báo hiệu các vấn đề tổn thương ở phổi hoặc đường hô hấp dưới. Theo TS.BS Đặng Thị Mai Khuê, Phó trưởng khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, việc xác định nguyên nhân gây ho ra máu là rất quan trọng để có phương pháp điều trị phù hợp.
Lao phổi là một trong những nguyên nhân thường gặp, với các biểu hiện đi kèm như ho ra máu kéo dài trên hai tuần, sốt nhẹ về chiều, đổ mồ hôi đêm, sụt cân không rõ nguyên nhân và mệt mỏi. Tuy nhiên, bác sĩ Khuê nhấn mạnh rằng không phải lúc nào ho ra máu cũng đồng nghĩa với việc mắc bệnh lao phổi.

Thực tế, nhiều bệnh hô hấp khác cũng có thể gây ra triệu chứng này. Viêm phế quản mạn tính, giãn phế quản, viêm phổi nặng, áp xe phổi hoặc nấm phổi đều có thể dẫn đến chảy máu khi ho. Ngoài ra, những người có bệnh lý tại phổi như dị vật đường thở hoặc viêm phổi mạn tính do u hạt không bã đậu cũng có thể ho ra đờm lẫn máu kéo dài, kèm theo đau ngực. Đáng chú ý, ở giai đoạn đầu của ung thư phổi, ho ra máu có thể là triệu chứng duy nhất.
Không chỉ các bệnh về đường hô hấp, các vấn đề tim mạch cũng có thể gây ho ra máu. Suy tim trái, hẹp van hai lá hoặc tắc mạch phổi có thể dẫn đến ứ đọng máu trong phổi, gây ra triệu chứng này. Trong trường hợp này, người bệnh thường kèm theo các biểu hiện như khó thở, mệt khi gắng sức, đau ngực và phù chân. Một số bệnh lý tự miễn như lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng Goodpasture, hội chứng Churg-Strauss, hoặc việc sử dụng thuốc kháng đông cũng có thể gây ho ra máu.
Bác sĩ Khuê khuyến cáo rằng, khi gặp tình trạng ho ra máu, người bệnh cần nhanh chóng đến bệnh viện để được kiểm tra và chẩn đoán chính xác. Đặc biệt, nếu lượng máu ho ra khoảng 100-200 ml trong vòng 24 giờ hoặc đi kèm với các triệu chứng như tức ngực, khó thở, mạch nhanh, tụt huyết áp, da nhợt nhạt, thì đây là dấu hiệu cấp cứu, có thể đe dọa tính mạng do mất máu cấp hoặc tắc nghẽn đường thở, suy hô hấp.
Để xác định nguyên nhân gây ho ra máu, bác sĩ có thể chỉ định các xét nghiệm như chụp X-quang hoặc CT ngực, xét nghiệm đờm để tìm vi khuẩn lao hoặc tế bào ung thư, và nội soi phế quản khi cần thiết. Các thế hệ máy CT hiện đại như CT 768 lát cắt, CT 1975 lát cắt hay CT 100.000 lát cắt giúp tăng cường khả năng phát hiện và đánh giá các tổn thương nhỏ ở phổi. Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể yêu cầu xét nghiệm máu, đánh giá đông máu, chức năng gan thận hoặc siêu âm tim để loại trừ các nguyên nhân ngoài phổi. Trong trường hợp ho ra máu lượng nhiều hoặc kéo dài, can thiệp nút mạch có thể được chỉ định để cầm máu.
Phương pháp điều trị sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ, bệnh nhân lao phổi sẽ được điều trị bằng phác đồ kháng lao, trong khi viêm phế quản mạn tính cần sử dụng kháng sinh và thuốc hỗ trợ hô hấp. Đối với bệnh nhân ung thư, phẫu thuật, xạ trị hoặc hóa trị có thể là các lựa chọn điều trị phù hợp.
Bác sĩ Mai Khuê cũng lưu ý rằng người bệnh không nên tự ý mua thuốc cầm máu hoặc kháng sinh khi chưa rõ nguyên nhân, vì điều này có thể làm tình trạng bệnh trở nên tồi tệ hơn, làm mờ các triệu chứng và gây khó khăn cho việc chẩn đoán. Việc tái phát nhiều lần mà không đi khám có thể dẫn đến bệnh tiến triển nặng hơn và gây tốn kém trong điều trị.
Để bảo vệ hệ hô hấp, bác sĩ khuyến cáo mọi người nên thực hiện các biện pháp như không hút thuốc, giữ môi trường sống sạch sẽ, tiêm ngừa đầy đủ và khám sức khỏe định kỳ. Những người có tiền sử lao hoặc đang điều trị bệnh phổi cần tuân thủ phác đồ điều trị và tái khám đúng hẹn để theo dõi tình trạng sức khỏe.
Admin
Nguồn: VnExpress