**Hệ thống cấp cứu đột quỵ trước viện tại Việt Nam còn nhiều hạn chế so với thế giới**
Tại Hội nghị Đột quỵ TP HCM ngày 9/8, PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng, Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, nhận định rằng Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong điều trị đột quỵ tại bệnh viện, với nhiều trung tâm đạt chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, khâu cấp cứu trước khi nhập viện vẫn còn một khoảng cách đáng kể so với các nước phát triển.
Theo bác sĩ Thắng, thời gian điều trị đột quỵ tại các bệnh viện Việt Nam hiện nay đã gần đạt chuẩn quốc tế, với việc áp dụng thành công hầu hết các phương pháp điều trị tiên tiến. Các kỹ thuật như tiêu sợi huyết và lấy huyết khối đường tĩnh mạch, trước đây chỉ có ở các bệnh viện lớn, nay đã được triển khai rộng rãi tại nhiều bệnh viện tuyến tỉnh. Tính đến nay, cả nước đã có 130 trung tâm đột quỵ, tăng gấp 7 lần so với năm 2017, trong đó một số trung tâm đã đạt các chuẩn Kim cương, Bạch kim, Vàng của Hội Đột quỵ Thế giới.
Tuy nhiên, việc chậm trễ trong cấp cứu chủ yếu xuất phát từ sự chủ quan đối với các triệu chứng ban đầu, thiếu nhận thức về đột quỵ và hệ thống vận chuyển cấp cứu chưa tối ưu. Nhiều bệnh nhân thường bỏ qua các dấu hiệu nhẹ ban đầu, cho rằng bệnh sẽ tự khỏi, và chỉ đến bệnh viện khi triệu chứng trở nên nghiêm trọng hơn. Một số người còn nhầm lẫn đột quỵ với cảm cúm, tự điều trị bằng các phương pháp dân gian như đánh gió, chích máu ngón tay hoặc dùng thuốc không rõ nguồn gốc. Đa phần bệnh nhân tự di chuyển bằng xe cá nhân thay vì gọi cấp cứu 115, dẫn đến việc di chuyển chậm trễ và đến sai cơ sở y tế, gây lãng phí thời gian cho việc chuyển tuyến.
Phó giáo sư Thắng nhấn mạnh rằng giai đoạn trước viện là khâu khó cải thiện nhất, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống y tế chứ không chỉ riêng một bác sĩ, một nhóm hay một bệnh viện.
Hiện nay, Việt Nam chưa có hệ thống chuyên viên y tế ngoại viện (paramedic) đúng nghĩa. Xe cấp cứu chủ yếu chỉ có chức năng vận chuyển bệnh nhân mà chưa thể thực hiện các biện pháp điều trị ban đầu. Trong khi đó, nhiều quốc gia đã phát triển các “đơn vị đột quỵ lưu động” (Mobile Stroke Unit) trên xe cứu thương, được trang bị máy CT mạch máu não và kết nối telemedicine với bác sĩ chuyên khoa để chẩn đoán và tiêm thuốc tiêu sợi huyết ngay tại hiện trường, trước khi đưa bệnh nhân đến bệnh viện.
Mô hình này giúp rút ngắn đáng kể thời gian điều trị. Tại Đức và Mỹ, bệnh nhân được dùng thuốc sớm hơn từ 30 đến 60 phút so với cấp cứu thông thường, giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ hồi phục. Ngay cả ở Thái Lan, công tác cấp cứu trước viện cũng được tổ chức tốt, giúp nhiều bệnh nhân được can thiệp trong vòng 60 phút kể từ khi khởi phát bệnh.
Lãnh đạo Hội Đột quỵ Việt Nam cho rằng việc cải thiện công tác cấp cứu trước viện phụ thuộc lớn vào ý thức của cộng đồng. Người dân cần nhận biết các dấu hiệu đột quỵ và gọi cấp cứu ngay lập tức thay vì chờ đợi. Bên cạnh đó, cần đầu tư đồng bộ vào nhân lực, trang thiết bị và hạ tầng vận chuyển để thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực.

PGS.TS.BS Mai Duy Tôn, Chủ tịch Hội Đột quỵ Hà Nội, Giám đốc Trung tâm Đột quỵ Bệnh viện Bạch Mai, cũng chỉ ra một thách thức khác của Việt Nam là sự phát triển nhanh chóng của hệ thống điều trị đột quỵ trong gần 10 năm qua chưa đồng đều, nhiều tỉnh miền núi và vùng sâu như Cao Bằng, Lai Châu vẫn gặp khó khăn trong việc triển khai. Nhiều nơi mới chỉ dừng lại ở đơn vị trong khoa thần kinh, chưa hình thành khoa hoặc trung tâm độc lập, ảnh hưởng đến chất lượng điều trị.
Đáng lo ngại hơn, độ tuổi trung bình của người bị đột quỵ tại Việt Nam là 62, trẻ hơn khoảng 10 tuổi so với thế giới. Nhiều người trong độ tuổi lao động sau khi bị đột quỵ không thể quay trở lại công việc, tạo gánh nặng lớn cho gia đình và xã hội. Hầu hết những người sống sót sau đột quỵ đều bị ảnh hưởng đến nhiều chức năng cơ thể, tàn phế, sức khỏe suy yếu hoặc mắc các di chứng như tê liệt, yếu cơ, mất ngôn ngữ, rối loạn cảm xúc, suy giảm thị giác…
Ước tính, cứ 4 người trưởng thành trên 25 tuổi thì có một người có nguy cơ mắc đột quỵ trong đời. Khoảng 90% bệnh nhân đột quỵ có các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, rung nhĩ, béo phì, hút thuốc lá, uống rượu bia. Để phòng ngừa đột quỵ, cần kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ này. Tuy nhiên, việc tuân thủ điều trị ở Việt Nam còn rất hạn chế. Đa số bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ thường chủ quan, lơ là việc điều trị do cảm thấy khỏe mạnh, và rất ít người uống thuốc lâu dài theo chỉ định của bác sĩ.
Năm 2024, Bộ Y tế đã ban hành hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đột quỵ, cùng với bộ tiêu chí đánh giá chất lượng chuyên ngành dựa trên ba yếu tố: nhân lực, chuyên môn và dịch vụ. Đột quỵ cũng đã được đưa vào Chương trình Mục tiêu Quốc gia chăm sóc sức khỏe dân số giai đoạn 2026-2035, trở thành bệnh lý ưu tiên thứ 6 (sau tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và rối loạn tâm thần). Các chuyên gia Việt Nam đã phát triển phần mềm dự báo nguy cơ đột quỵ cho người dân, ứng dụng trợ lý ảo hỗ trợ bác sĩ và hệ thống cấp cứu đột quỵ thí điểm tại các thành phố lớn.
Phó giáo sư Tôn nhấn mạnh rằng mục tiêu cuối cùng là xây dựng một Chương trình Quốc gia phòng chống đột quỵ với ngân sách, quy trình và hệ thống đánh giá rõ ràng, để mọi bệnh nhân trên cả nước đều được tiếp cận dịch vụ cấp cứu và điều trị chất lượng cao.
Admin
Nguồn: VnExpress