Tôi thuộc thế hệ thứ hai của Đoàn Dân ca Quan họ Hà Bắc, thường được gọi là “lớp hai”. Dù khoảng cách thời gian không lớn, tôi luôn coi mình là người kế thừa các thế hệ nghệ sĩ đi trước. Kế thừa những “tượng đài” nghệ thuật luôn là một thách thức, đôi khi khiến ta tự hỏi liệu mình có thể đạt đến trình độ của họ hay không. “Lớp một” của đoàn bao gồm những nghệ sĩ gạo cội như Thúy Cải, Quý Tráng, Xuân Mùi, Vũ Tự Lẫm, Lê Văn Toàn, Hai Phức, Lệ Ngải, Khánh Hạ, Hồng Mạnh và nhiều người khác. Sự xuất sắc của họ là động lực để thế hệ thứ hai như chúng tôi không ngừng nỗ lực. Những bài học quý giá mà họ để lại tạo cho chúng tôi áp lực phải làm tốt, nếu không sẽ cảm thấy có lỗi với các bậc tiền bối. Nhìn lại, thời gian trôi thật nhanh, giờ đây, hầu hết các nghệ sĩ thế hệ đầu đã nghỉ hưu, thậm chí một số người đã không còn nữa.

Khi mới gia nhập đoàn, tôi vừa là diễn viên, vừa học hát. Lúc đó tôi còn nhỏ, chỉ mười ba, mười bốn tuổi, giọng chưa vỡ nên vẫn trong trẻo và cao vút. Tôi nhớ những buổi chiều đứng trên ban công tầng hai để luyện hát. Người chở xe thồ, người đi qua làng Bò Sơn đều dừng lại lắng nghe. Họ có lẽ là những khán giả đầu tiên của tôi, những người đã sớm giúp tôi tự tin vào khả năng của mình.
Thời điểm đó, bác Siêu là trưởng đoàn, còn cụ Xôi là người thầy đầu tiên dạy tôi hát. Tuổi trẻ có một thứ vô giá, đó là nhiệt huyết. Nhiệt huyết cùng với đam mê và tình yêu nghệ thuật là hành trang quý giá, là động lực trên con đường tìm kiếm những giá trị đích thực. Tôi cũng vậy. Tôi mang theo tất cả nhiệt huyết, tình yêu và niềm say mê để lĩnh hội những kinh nghiệm mà cụ Xôi truyền dạy. Tôi cố gắng học tất cả các làn điệu cổ, từ La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, đến Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, Gió mát trăng thanh, Tứ quý… Học làn điệu cổ không hề đơn giản, đòi hỏi sự nghiêm túc tập luyện dưới sự hướng dẫn bài bản, công phu của các bậc tiền bối, từ cách ngắt nhịp, lấy hơi đến luyến láy. Vốn có tính cách thích chinh phục thử thách, tôi càng thấy hứng khởi và quyết tâm hơn với những làn điệu khó.
Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã ý thức được rằng nghệ thuật không phải là thứ để học thuộc lòng hay bắt chước. Nghệ thuật là một dòng chảy mà mỗi nghệ sĩ chỉ có thể hòa mình vào khi biết cách kết nối nó với dòng chảy tự nhiên trong chính cơ thể mình. Tôi từng đọc được rằng, năng khiếu không phải là thứ bẩm sinh tự phát triển một cách huyền bí, mà cũng không phải là kết quả tất yếu của quá trình đào tạo, rèn luyện. Nếu thiếu quá trình này, năng khiếu có thể bị thui chột. Hiểu được điều đó, sau khi học xong một làn điệu mới, tôi luôn dành thời gian luyện tập, cảm nhận và thẩm thấu đến khi nào bản thân thấy hài lòng mới thôi.
Thật khó để định nghĩa rõ ràng về mức độ tự hài lòng khi thể hiện từng làn điệu. Những điều lớn lao thường không có thang điểm cụ thể. Với tôi, có lẽ sự hài lòng đến khi tôi thật sự hiểu đúng và cảm đủ về một làn điệu dân ca. Người Kinh Bắc có câu: “Cổ truyền quan họ Bắc Ninh/ Ai chơi quan họ có tinh mới tường”. “Hiểu đúng” là biết rõ kỹ thuật trình diễn, còn “cảm đủ” là am tường giá trị văn hóa gắn liền với mỗi làn điệu. Tôi bị cuốn hút bởi văn hóa quan họ. Tôi say đắm với việc thể hiện các sinh hoạt thường ngày, cách ứng xử khéo léo, tế nhị, kín đáo, thanh lịch và giàu ý nghĩa của người Kinh Bắc qua lời ca tiếng hát. Tôi tự hào rằng quan họ không chỉ là một loại hình nghệ thuật tổng thể với sự gắn bó hoàn chỉnh giữa âm nhạc, lời ca và lề lối giao duyên, mà còn mở ra một không gian văn hóa với môi trường diễn xướng, mối quan hệ giữa người với người, ân tình mộc mạc của những người dân quê chân chất đã truyền trao cho nhau từ ngàn đời. Tôi yêu quan họ, không chỉ vì đó là nét văn hóa của quê hương, mà còn bởi vẻ đẹp riêng của loại hình nghệ thuật truyền thống này.
Admin
Nguồn: VnExpress