Công nghệ cầu hầm: Người Việt làm chủ kỹ thuật

Trước năm 1995, Việt Nam đã xây dựng một số cầu lớn như Chương Dương và Thăng Long, tuy nhiên, các công đoạn thiết kế và thi công chủ yếu do các nhà thầu nước ngoài đảm nhiệm. Kỹ sư và công nhân Việt Nam thường chỉ tham gia vào các công việc đơn giản hoặc hỗ trợ giám sát.

Trong lĩnh vực xây dựng hầm, kinh nghiệm của Việt Nam chủ yếu tập trung vào các đường hầm thủy điện có đường kính từ 5-6 mét, sử dụng công nghệ nổ mìn và đổ bê tông vỏ. Việc đào hầm đường bộ xuyên núi với đường kính trên 10 mét vẫn chưa thể thực hiện được. Với công nghệ truyền thống, sau khi nổ mìn, vẫn còn khoảng trống giữa kết cấu chống đỡ và khối đá, tạo điều kiện cho đá biến dạng vào lòng hầm, gây nguy cơ mất an toàn.

Bước ngoặt quan trọng đến từ các dự án hạ tầng quy mô lớn sử dụng vốn FDI, ODA từ Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc… bắt đầu từ năm 1995. Nhờ đó, các kỹ sư Việt Nam có cơ hội tiếp cận với công nghệ tiên tiến như cầu dây văng, cầu bê tông dự ứng lực, đúc hẫng cân bằng, và hầm xuyên núi công nghệ mới.

Một cột mốc đáng nhớ là việc Việt Nam tự thiết kế và thi công cầu dây văng đầu tiên.

Hầm Hải Vân, dài 6,2 km nối Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng, khởi công năm 2000, là công trình hầm lớn nhất vào thời điểm đó. Việc thi công chính do các chuyên gia Nhật Bản thực hiện. Đây là lần đầu tiên các kỹ sư Việt Nam, bao gồm lực lượng từ Tổng công ty Sông Đà và Cienco 6, được tiếp cận với công nghệ đào hầm xuyên núi NATM của Áo.

PGS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam, nhấn mạnh rằng giá trị lớn nhất của giai đoạn này là tinh thần học hỏi: “Các đối tác quốc tế mang đến thiết kế, công nghệ và vật liệu hiện đại, và người Việt Nam đã học hỏi một cách nghiêm túc để sớm làm chủ.”

Ngày 21/5/2000, lễ khánh thành cầu Mỹ Thuận, cây cầu dây văng hai mặt phẳng dây lớn nhất Việt Nam lúc bấy giờ, đã trở thành một kỷ niệm khó quên đối với người dân Đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, việc qua sông Tiền giữa Tiền Giang và Vĩnh Long mất nhiều giờ chờ phà trong điều kiện thời tiết oi bức. Cầu Mỹ Thuận hoàn thành đã chấm dứt cảnh “qua sông lụy phà” kéo dài nhiều thế hệ.

Mỹ Thuận là một công trình quy mô lớn, đòi hỏi kỹ thuật cao, được thiết kế, giám sát và thi công bởi đội ngũ kỹ sư Australia. Việt Nam chỉ tham gia với vai trò nhà thầu phụ (Cienco 6). Tuy nhiên, từ công trình này, đội ngũ kỹ sư trong nước đã nhanh chóng tiến tới việc tự thiết kế và thi công cầu dây văng Rạch Miễu.

Cầu Rạch Miễu bắc qua sông Tiền, nối Tiền Giang và Bến Tre, khởi công năm 2002 và hoàn thành năm 2009, là cầu dây văng đầu tiên do người Việt Nam tự thiết kế và làm tổng thầu xây dựng, với nguồn vốn đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp Cienco 1, Cienco 5, Cienco 6 lần đầu tiên tiếp cận đầy đủ công nghệ xây cầu dây văng. Bộ GTVT đã cử một đoàn kỹ sư ra nước ngoài học tập, sau đó áp dụng vào dự án. Mặc dù vậy, công đoạn phức tạp nhất, lắp đặt cáp dây văng, vẫn do các chuyên gia Thụy Sĩ (SVL) thực hiện.

Cùng thời gian đó, vào năm 2006, cầu Bãi Cháy ở Quảng Ninh, cầu dây văng bê tông dự ứng lực liên tục lớn nhất Đông Nam Á, được thiết kế và thi công chính bởi các chuyên gia Nhật Bản. Tuy nhiên, đây cũng là một môi trường học tập quan trọng cho các kỹ sư Việt Nam, đặc biệt là từ các tổng công ty cầu Thăng Long và Cienco 1.

Từ những kinh nghiệm ban đầu, Việt Nam đã vươn lên làm chủ công nghệ hầm xuyên núi.

Ông Bùi Hồng Đăng, chuyên gia thi công hầm tại Tập đoàn Đèo Cả, cho biết rằng từ dự án Hải Vân 1, các kỹ sư Việt Nam đã học hỏi, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm và làm chủ công nghệ NATM, phun bê tông trực tiếp bám chặt bề mặt đá, ngăn chặn biến dạng và thích ứng với nhiều điều kiện địa chất khác nhau.

Năm 2012, hầm Đèo Cả, dài 4,2 km, với hai ống hầm tổng cộng 8,4 km, nối Khánh Hòa và Phú Yên, được thi công chính bởi các kỹ sư Việt Nam, với sự giám sát của các chuyên gia Nhật Bản. Đây là một bước ngoặt quan trọng, khẳng định năng lực của đội ngũ kỹ sư trong nước.

Tiếp theo đó, hàng loạt các hầm khác như Cù Mông (2,6 km), Hải Vân 2 (hơn 6 km), Núi Vung (hơn 2 km), Thung Thi… trên tuyến cao tốc Bắc – Nam đều do kỹ sư và công nhân Việt Nam thiết kế, giám sát và thi công.

PGS Trần Chủng nhận định: “Với niềm tin vào trí tuệ Việt và cơ chế chính sách thuận lợi, chúng ta đã tổ chức, quản lý và thi công thành công những hầm đường bộ hiện đại, an toàn, đánh dấu một cột mốc mới trong lịch sử ngành giao thông.”

Cầu Mỹ Thuận 2, một biểu tượng cho sự làm chủ hoàn toàn công nghệ.

Cầu Rạch Miễu là cầu dây văng đầu tiên do người Việt thiết kế. Ảnh:Hoàng Nam
Cầu Rạch Miễu: Cầu dây văng đầu tiên do Việt Nam thiết kế. Ảnh: Internet

Khởi công vào tháng 2/2020, cầu Mỹ Thuận 2 nối Tiền Giang và Vĩnh Long là cầu dây văng đầu tiên do Việt Nam tự lập dự án, thiết kế và thi công toàn bộ, bao gồm cả công đoạn căng cáp. Tổng vốn đầu tư của dự án là hơn 5.000 tỷ đồng.

Cầu Mỹ Thuận 2 bắc qua sông Tiền. Ảnh: Huy Phong
Cầu Mỹ Thuận 2: Biểu tượng mới trên sông Tiền (xây dựng 2020). Ảnh: Internet

Lần đầu tiên, các tính toán kỹ thuật được thực hiện hoàn toàn bởi đội ngũ trong nước. Dầm được đúc đến đâu, các kỹ sư tiến hành đo đạc và nhập dữ liệu vào máy tính đến đó. Đội ngũ kỹ sư làm việc xuyên đêm để tính toán và cung cấp dữ liệu cho đội thi công vào ngày hôm sau. Nhờ đó, mỗi đốt dầm được hoàn thành trong vòng chưa đầy hai tuần, giúp kiểm soát tiến độ công trình một cách hiệu quả.

Hầm đường bộ Đèo Cả dài 4,2 km, tuyến hầm dài thứ hai trên cả nước do người Việt làm chủ đầu tư, thiết kế, thi công, . Ảnh: Anh Duy
Hầm Đèo Cả: Tuyến hầm dài thứ hai Việt Nam do người Việt làm chủ. Ảnh: Internet

Ông Phan Văn Quân, Phó giám đốc Công ty CP Xây dựng hạ tầng Bắc Trung Nam, cho biết rằng các công đoạn chế tạo xe đúc, căng cáp và hợp long đều đạt sai số cực thấp, với độ lệch cao độ thiết kế của dầm chỉ khoảng 3 cm. Với khẩu độ vượt nhịp 350 m, đây là một minh chứng rõ ràng cho năng lực làm chủ công nghệ của các nhà thầu Việt Nam.

Sau dự án Mỹ Thuận 2, các dự án cầu dây văng quy mô lớn khác như Rạch Miễu 2 và Đại Ngãi tiếp tục được các kỹ sư Việt Nam triển khai.

Theo PGS Trần Chủng, sau hơn 20 năm, đội ngũ xây dựng Việt Nam đã tiếp cận được công nghệ tiên tiến và quản lý dự án theo tiêu chuẩn quốc tế, đủ khả năng làm tổng thầu các dự án PPP và EPC. Ông nhấn mạnh rằng hệ thống hạ tầng giao thông hiện đại không chỉ tạo ra không gian phát triển mới cho đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ và du lịch, mà còn là nền tảng cho sự phát triển bền vững, thúc đẩy kinh tế – xã hội trên khắp các vùng miền.

Ông kết luận: “Những thành tựu về công nghệ cầu và hầm là tiền đề cho một Việt Nam tự tin hơn trên bản đồ xây dựng thế giới, nơi những công trình ‘made in Vietnam’ ngày càng nhiều và vươn xa.”

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *