Võ Miễn, tên thật là Võ Đức Dật, một thành viên của Ban khởi nghĩa giành chính quyền tại xã Duy Mỹ, huyện Duy Xuyên (nay là xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, Quảng Nam) trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã trải qua những năm tháng đầy gian khổ và xúc động trong cuộc chiến tranh.
Năm 1955, ông Dật, khi đó là Bí thư chi bộ, đã dẫn hơn 50 đảng viên tập kết ra Bắc để bảo toàn lực lượng trước nguy cơ bị địch thủ tiêu. Lúc này, con trai út của ông, Võ Tiến Trung, chỉ mới ba tháng tuổi.
Năm 1960, gia đình ông lại phải đối mặt với thử thách khi ba người vợ của anh em ông Dật bị địch bắt và tra tấn dã man để khai thác thông tin về nơi ẩn náu của chồng và đồng đội. Cậu bé Võ Tiến Trung, mới 5 tuổi, đã phải cùng mẹ, bà Đỗ Thị Nhân, vào tù. Những ký ức kinh hoàng về những trận tra tấn mà mẹ cậu phải chịu đựng, cảnh bà bị trói, đổ bột xà phòng vào miệng rồi ép ván lên bụng đến trào máu, đã in sâu vào tâm trí non nớt của cậu.
Thượng tướng Võ Tiến Trung, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam, nhớ lại: “Không khai thác được gì, chúng ép mẹ và các thím viết đơn ly hôn. Mẹ tôi nói: Ở quê tôi, phụ nữ bỏ chồng là hư hỏng, cha mẹ sẽ cạo đầu”.

Nhờ còn nhỏ tuổi, Trung được phép đi lại giữa khu giam nam và nữ, trở thành liên lạc bí mật cho các chiến sĩ cách mạng. Đến năm 1963, khi các tù chính trị được trả tự do, hai mẹ con trở về căn nhà lá bên bờ sông Thu Bồn, nơi sau đó trở thành điểm dừng chân bí mật cho cán bộ cách mạng. Cậu bé Trung được mẹ dặn dò: “Đây là mấy chú đi theo ba con, tuyệt đối không được nói với ai”. Từ đó, cậu bắt đầu hiểu được khái niệm Việt Minh, Việt Cộng và phân biệt được “phe mình”.
Năm 1965, khi quân đội Mỹ đổ bộ vào Việt Nam, Võ Tiến Trung, mới 11 tuổi, đã trở thành đội trưởng đội du kích thiếu niên bí mật xã Lộc Phước. Cậu vừa tham gia đánh địch, vừa làm công tác địch vận. Đến năm 14 tuổi, Võ Tiến Trung được phong tặng danh hiệu “dũng sĩ diệt địch” và được cử ra Bắc học văn hóa. Dù lòng mong muốn ở lại chiến đấu, cậu bé vẫn nghe theo lời động viên, coi đây là cơ hội “gặp Bác Hồ” và “tìm ba”.
Tháng 8 năm 1969, Võ Tiến Trung đặt chân đến miền Bắc, nhưng ước mơ gặp Bác Hồ không thành hiện thực vì Người đã yếu. Niềm hy vọng lớn nhất của cậu lúc này là tìm được cha.
Sau khi được đưa về trung đoàn an dưỡng 580 ở Nam Hà, Trung đã gửi đơn xin tìm cha, nhưng không nhận được hồi âm. Sau đó, cậu được đơn vị cử đi kể chuyện, động viên tinh thần sinh viên, công nhân tại các nhà máy, trường học, rồi chuyển về số 83 Lý Nam Đế, nơi ở của các anh hùng, dũng sĩ miền Nam.
Trong những ngày ở Hà Nội, cậu luôn mặc quân phục chỉnh tề, sẵn sàng lên đường. Một hôm, Trung để ý thấy một người đàn ông đội mũ lông quen thuộc thường đi ngang qua. Một buổi chiều, người đàn ông dừng lại hỏi chuyện và khi biết Trung đến từ Quảng Đà, kể rõ quê quán, tên cha mẹ, ông liền ôm chầm lấy cậu, nghẹn ngào: “Tám ơi! Ba đây!”.
Hóa ra, ông Dật đang công tác tại Bộ phận tài chính Ban Công tác miền Tây, ở số 91-93 Lý Nam Đế, và được phân ở số nhà 79 Lý Nam Đế, ngay sát nơi con trai đang ở.
Cả trạm xá ùa ra chứng kiến khoảnh khắc xúc động. Người trạm trưởng lập tức bảo quản lý lấy thịt bò, thịt lợn, gà, những thực phẩm quý hiếm thời bấy giờ, để cha con ông Trung ăn mừng. Tối đó, Trung được nghỉ phép về ở cùng cha. Ông Dật vừa dẫn con về phòng vừa khoe với mọi người: “Tôi tìm được con rồi!”. Hàng xóm, đồng đội kéo đến chung vui, mang thêm thức ăn.
Trong căn phòng của cha, Trung thấy một bức ảnh gia đình đặt trên bát hương làm từ cốc nhựa. Năm 1965, bà Nhân cùng các con và cháu đã chụp một tấm ảnh gửi ra Bắc cho ông Dật.
Một năm sau, một thương binh từ miền Nam ra báo tin cả gia đình ông đã bị giặc sát hại. Ông Dật đã dùng tấm ảnh vợ con làm ảnh thờ.
Nghe con trai kể về tình hình quê nhà, ông biết vợ và 7 người con đều tham gia cách mạng, người con gái thứ hai và cháu ruột đã hy sinh vì bom đạn. Ông đã khóc suốt đêm thương nhớ con gái và nhờ họa sĩ vẽ riêng ảnh chị từ tấm ảnh gia đình để thờ. Hai cha con cũng tranh thủ đi dạo bờ Hồ, chụp một tấm ảnh kỷ niệm sau 14 năm xa cách.
Trong lần đi chụp ảnh ở bờ Hồ đó, Trung xin ở lại chơi thêm nên bị lạc. Vì mặc quân phục và đeo quân hàm thượng sĩ, cậu bị kiểm soát quân sự kiểm tra và đưa về nhà để xác minh.
Sau ngày đoàn tụ, ông Dật luôn tự tay nấu những món ngon cho con. Mỗi dịp Tết đến, Trung và anh trai lại đưa bạn bè về ăn Tết cùng cha. Sau này, Trung mới biết cha luôn phải ứng trước lương để có tiền mua sắm Tết.

Ngày đất nước thống nhất, ông Võ Đức Dật trở về quê hương đoàn tụ với vợ. Ông qua đời năm 1989, vợ ông mất năm 2000.
Người con út Võ Tiến Trung theo học trường Sĩ quan Đặc công, tốt nghiệp thủ khoa năm 1978, và sau đó tiếp tục học tập, nghiên cứu, trở thành phó giáo sư, tiến sĩ. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội, từ Trung đoàn trưởng đến Phó tư lệnh Quân khu 5, và Giám đốc Học viện Quốc phòng. Ông nghỉ hưu năm 2016, sau 50 năm cống hiến.

Ở tuổi 70, ông vẫn cùng đồng đội đi dọc miền Trung, thăm chiến trường xưa, thắp hương tưởng nhớ đồng đội, và lặng ngắm đất nước hòa bình. Ông chia sẻ: “Thật hạnh phúc khi thấy những hi sinh của cha chú, của mình và đồng đội góp phần vào những đổi thay hôm nay”.
Ông vừa hoàn thành cuốn hồi ký về cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, không in đại trà mà chỉ dành tặng đồng đội và con cháu, như một lời nhắc nhở về giá trị của hòa bình, được đánh đổi bằng máu và nước mắt.
“Cuộc hội ngộ của cha con tôi là may mắn hiếm hoi giữa bom đạn và cũng là bi kịch của chiến tranh. Được sống trong hòa bình, ấm êm bên gia đình thì người trẻ hãy trân trọng từng ngày”, ông nhắn nhủ.
Admin
Nguồn: VnExpress