Nguyễn Thị Bình: Nữ sứ giả hòa bình Việt Nam

Bộ Nội vụ hiện đang thu thập ý kiến để xét tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước và nguyên Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Cuộc tranh biện giữa bà Nguyễn Thị Bình và các nhà báo Mỹ
Nguyễn Thị Bình tranh biện với nhà báo Mỹ: Góc nhìn từ Hiệp định Paris. Ảnh: Internet

Bà Nguyễn Thị Bình, tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa, sinh năm 1927 tại Quảng Nam. Bà có một gia thế cách mạng: mẹ là con gái thứ hai của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, còn cha là con thứ mười của một nghĩa binh Cần Vương, làm công chức trắc địa ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Trong hồi ký của mình, bà Bình kể rằng tuổi thơ gắn liền với đồng ruộng đã giúp bà hiểu biết về công việc nhà nông, biết câu cá, bắt tôm. Khi cha bà được điều động sang Campuchia công tác, cả gia đình đã chuyển đến sống trong một căn nhà gỗ trên đại lộ Miche, thủ đô Phnom Penh.

Những năm tháng ấu thơ, bà Châu Sa thường được mẹ kể về người ông ngoại là chí sĩ Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Dù chưa từng gặp mặt ông, nhưng những câu chuyện đó đã sớm truyền cho bà lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.

Bà Châu Sa theo học tại trường Lycée Sisowath, một trường trung học lớn nhất ở Campuchia dành cho con em công chức người Pháp. Một kỷ niệm đáng nhớ là khi nghe thấy những bạn học người Pháp nói xấu người giúp việc trong nhà, gọi họ là “bọn Anamites ăn cắp”, bà đã không ngần ngại dùng cặp sách đánh trả.

Bà Nguyễn Thị Bình ký điều ước công nhận Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh tư liệu
Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, 27/1/1973 (Ảnh tư liệu). Ảnh: Internet

Bà Bình từng viết rằng: “Ngày tháng tuổi thơ ảnh hưởng lâu dài trong cả cuộc đời tôi, cả hoạt động xã hội lẫn đời sống riêng”.

Khi mẹ bà lâm bệnh nặng và phải về Sài Gòn chữa trị, Châu Sa ấp ủ ước mơ trở thành bác sĩ để chữa bệnh cho người nghèo sau khi tốt nghiệp tú tài. Sau khi mẹ qua đời, cha bà đặt nhiều kỳ vọng vào cô con gái cả. Vốn học giỏi, đặc biệt là môn toán, bà từng làm gia sư, dạy toán ở một số trường.

Bà Châu Sa yêu thích nhạc trữ tình của Schubert, Schumann và đam mê thể thao, nhất là bóng rổ. Bà cũng học may vá, nấu nướng với mong muốn trở thành người phụ nữ “công, dung, ngôn, hạnh”. Tuy nhiên, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương vào tháng 3/1945, gia đình bà trở về Việt Nam và việc thi tú tài phải tạm gác lại.

**Mối tình chung thủy**

Bà Bình từng tâm sự: “Cuộc sống tình cảm thật sự là phần hết sức quý giá trong đời tôi” và tự nhận mình là “người hạnh phúc”. Thời gian ở Campuchia, cha bà làm việc trong Cơ quan trắc địa và hướng dẫn một số thực tập sinh từ Hà Nội, tốt nghiệp Đại học Bách khoa, khoa Cầu Cống. Trong số đó có chàng trai Đinh Khang, một người yêu thể thao, chơi bóng bàn, bóng chuyền, bóng rổ đều giỏi.

Họ gặp nhau trên sân bóng rổ và tình cảm dần nảy nở. Tuy nhiên, cha bà tỏ ra thận trọng vì chưa biết rõ về gia đình chàng trai và mong muốn con gái học hành đến nơi đến chốn.

Bà Nguyễn Thị Bình trả lời phỏng vấn các nhà báo sau khi dự phiên họp đầu tiên bàn về thủ tục hội nghị bốn đoàn tại Paris, tháng 1/1969. Ảnh tư liệu
Nguyễn Thị Bình trả lời phỏng vấn về hội nghị Paris, 1969 (Ảnh tư liệu). Ảnh: Internet

Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, bà trở về Sài Gòn tham gia Việt Minh. Giữa năm 1946, hai người gặp lại nhau tại đền thờ cụ Phan Châu Trinh. Ông Khang ở lại với gia đình bà Bình vài tháng trước khi ra Hà Nội. Trước khi đi, ông nói: “Anh phải ra Bắc tham gia quân đội Việt Minh, ở đó có nhiều bạn bè. Tình hình trong Nam phức tạp, khó biết làm gì”. Họ chia tay và hẹn ngày gặp lại.

Trong suốt 9 năm, bà Bình chỉ nhận được từ ông Khang mấy dòng chữ ngắn ngủi trên một mảnh giấy nhỏ: “Chúc em và gia đình an toàn, khỏe mạnh”. Bà rất vui khi biết người yêu vẫn còn sống và đang công tác trong ngành công binh. Dù yêu xa và trong bối cảnh chiến tranh, bà vẫn luôn tự nhủ sẽ chỉ yêu một người hơn ông Khang.

Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, bà Bình tập kết ra Bắc và gặp lại người yêu. Cuối năm 1954, hai người tổ chức đám cưới giản dị vì tháng sau bà phải trở lại Sài Gòn hoạt động. Từ đó, dù thường xuyên phải xa cách vì công việc, tình yêu của họ đã giúp bà vững vàng và hoàn thành nhiệm vụ. Vợ chồng bà có hai người con, một trai và một gái. Bà Bình viết trong hồi ký: “Tôi là người hạnh phúc, đã lấy được người mình yêu và đó cũng là mối tình đầu”.

Trước khi lên đường tham gia đàm phán Paris, bà Bình đã gọi điện cho chồng từ trường Công binh ở Bắc Giang về gặp mặt. Khi bà còn bối rối chưa biết mở lời thế nào, chồng bà đã động viên: “Em có việc phải làm, cứ yên tâm đi, các con đã có anh lo”.

**’Sứ giả hòa bình’ ở Paris**

Năm 1961, bà Bình tham gia Ban Thống nhất, phụ trách hoạt động ngoại giao nhân dân của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau nhiều năm hoạt động cách mạng và trải qua nhiều chức vụ, tháng 7/1968, bà được cử làm đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia hội nghị Paris, một cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử thế giới, kéo dài từ tháng 11/1968 đến ngày 27/1/1973.

Vào ngày 2/11/1968, bà Bình đến Paris trong chiếc áo dài màu hồng sẫm, khoác áo măng tô xám và quàng khăn đen có hoa văn. Trước 400 nhà báo, bà đã có bài phát biểu đầu tiên, trình bày lập trường chính nghĩa của Mặt trận và bày tỏ thiện chí tìm kiếm giải pháp hòa bình. Các nhà báo đã thể hiện sự thiện cảm với bà, một phụ nữ nhỏ nhắn, hiền lành đến từ vùng đất đang chìm trong chiến tranh, với những lời lẽ đầy lý lẽ và tình cảm.

Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ở tuổi 90, năm 2017. Ảnh:
Nguyễn Thị Bình ở tuổi 90: Chân dung nguyên Phó chủ tịch nước (2017). Ảnh: Internet

Sau phiên họp trù bị vào ngày 27/11/1968, ngày 25/1/1969, hội nghị bốn bên tại Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức bắt đầu. Bà Bình giữ vai trò Phó đoàn của Mặt trận. Trong suốt bốn năm, vào mỗi thứ năm hàng tuần, bà Bình cùng hai đoàn Việt Nam đến Trung tâm hội nghị Kléber để đàm phán.

Tháng 6/1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, bà Bình được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao, đồng thời làm Trưởng đoàn đàm phán tại Paris thay ông Trần Bửu Kiếm. Bà kể lại: “Đón tin được bổ nhiệm làm Bộ trưởng, tôi thực sự không coi là tin vui mà thấy nhiệm vụ sẽ nặng nề hơn”. Từ đây, vai trò “sứ giả hòa bình” của bà càng trở nên nổi bật và ấn tượng.

Ngoài việc chuẩn bị cho các cuộc họp ở Kléber, bà Bình dành nhiều thời gian để tiếp xúc với báo chí. Có thời điểm, bà tiếp một hoặc hai hãng truyền hình hoặc phóng viên các báo Pháp, Mỹ, Anh, Nhật Bản mỗi ngày. Bà cũng dành thời gian đến nhiều nước như Anh, Italia, Thụy Điển, Bungari, Cuba, châu Phi… để vận động sự ủng hộ hòa bình cho Việt Nam.

Tháng 9/1970, phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã đưa ra bản dự thảo 8 điểm tại bàn đàm phán Paris, gây tiếng vang lớn. Dự thảo yêu cầu Mỹ rút hết quân về nước, loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Trần Thiện Khiêm, đồng thời thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời ở miền Nam.

Gần một năm sau, phái đoàn do bà Bình dẫn đầu tiếp tục đưa ra kế hoạch 7 điểm, trong đó yêu cầu Mỹ phải rút hết quân và thả tù binh; chính quyền Sài Gòn từ chức, nhường chỗ cho chính quyền mới sẵn sàng đàm phán với Chính phủ Cách mạng lâm thời để thành lập Chính phủ hòa hợp dân tộc.

Tuy nhiên, trong khi chiến trường miền Nam ngày càng căng thẳng, bàn hội nghị Paris vẫn là “cuộc đối đáp giữa những người điếc”, mỗi bên giữ vững quan điểm và lập trường riêng. Đầu năm 1972, bà Bình được chỉ thị đưa ra tuyên bố hai điểm: Mỹ rút quân và thành lập ở miền Nam Chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần gồm Chính phủ Cách mạng lâm thời, chính quyền Sài Gòn và thành phần thứ ba.

Khi Mỹ huy động máy bay B52 ném bom Hà Nội vào cuối năm 1972, bà Bình về Hà Nội, thăm phố Khâm Thiên bị tàn phá và hai con nhỏ đang sơ tán tại thị xã Hưng Yên. Ngày 21/1/1973, trở lại Paris, bà Bình tổ chức ngay cuộc họp báo, tuyên bố: “Chỉ có một nước Việt Nam, chỉ có một dân tộc Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời là đại diện của nhân dân miền Nam”.

Hãng AFP mô tả: “Madam Bình mặc áo dài truyền thống của Việt Nam bằng lụa vân màu xanh lá cây, trông rất thoải mái. Đôi lúc madam Bình nở nụ cười làm khuôn mặt càng rạng rỡ, trả lời các nhà báo rõ ràng khúc chiết, làm cho người ta có cảm giác đứng trước một quý bà đầy bản lĩnh, đầy tự tin”.

Sau bốn năm kiên trì đấu tranh, ngày 23/1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký tắt và ký chính thức bốn ngày sau đó. Vào ngày ký chính thức 27/1, bà Bình đại diện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, là một trong bốn bên tham gia ký kết vào 32 văn bản hiệp định.

Bà viết trong hồi ký: “Đặt bút ký vào văn bản hiệp định Paris lịch sử, tôi vô cùng xúc động… Tôi không có đủ lời để nói lên được lòng biết ơn vô tận với đồng bào và chiến sĩ ta từ Nam chí Bắc đã chấp nhận mọi hy sinh, dũng cảm chiến đấu để có được thắng lợi to lớn hôm nay”.

**Phó chủ tịch nước giúp nhiều phạm nhân giảm án tù**

Sau ngày thống nhất đất nước, bà Nguyễn Thị Bình đã có 11 năm làm Bộ trưởng Giáo dục, 5 năm làm Phó trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.

Đầu năm 1992, khi bà đang ở TP HCM, Tổng Bí thư Đỗ Mười đến thăm và cho biết Bộ Chính trị dự định cử bà làm Phó chủ tịch nước khóa tới. Lúc đó, bà đã 65 tuổi, quá tuổi nghỉ hưu theo quy định, nên đã từ chối. Tuy nhiên, bà nghĩ rằng “mình có làm cũng là vì đất nước, không vì mục đích khác”, nên đã đồng ý nhận nhiệm vụ. Trong hai nhiệm kỳ đảm nhiệm cương vị Phó chủ tịch nước, bà đã có nhiều đóng góp cho đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại và tư pháp.

Từ năm 1991, bà được cử tham dự các hội nghị cấp cao Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp. Trong một lần gặp Tổng thống Pháp Jacques Chirac, bà đã đặt vấn đề về việc tại sao Pháp lại xếp Việt Nam vào loại nước thứ tư trong quan hệ ưu tiên thương mại. Ngay sau đó, Tổng thống Pháp đã yêu cầu trợ lý xếp Việt Nam vào loại nước thứ ba.

Năm 1994, bà Bình đi thăm một số nước châu Phi. Trên đường về, bà đã gặp Chủ tịch Tổ chức Lương thực thế giới (FAO) Jacques Diouf và trao đổi về tình hình lương thực thế giới. Cuộc nói chuyện đã đưa đến sáng kiến Việt Nam gửi chuyên gia, FAO tài trợ phần lớn, còn các nước châu Phi chi trả chi phí sinh hoạt cho chuyên gia để sản xuất lương thực ở châu Phi. Ý tưởng này đã được thực hiện thành công.

Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, có nhiều ý kiến phàn nàn về hoạt động tư pháp. Năm 1995, bà Bình được cử đi kiểm tra một số địa phương, sau đó báo cáo với Chủ tịch nước về thực trạng và đưa ra các giải pháp cải cách tư pháp. Nhiều vấn đề cụ thể đã được bà Bình kiến nghị giải quyết.

Khi đến trại giam của Bộ Công an tại Hà Nội, bà đã gặp một thanh niên bị kết án tử hình nhưng đã bị giam giữ hơn 6 năm mà chưa được xử lý vì bị can và gia đình kêu oan, kháng cáo, tòa xử đi xử lại nhiều lần không xong. Bà kiến nghị nếu không đủ chứng cứ kết tội nặng thì trước mắt phải giảm hình phạt để bị can được sống trong điều kiện của các tù nhân bình thường, bớt khắc nghiệt hơn.

Đến TP HCM, bà xuống trại giam huyện Củ Chi và thấy nhiều phụ nữ bị bắt vì tội đánh bạc, trong đó có nhiều người buôn bán nhỏ lẻ, có con nhỏ. Bà đã bàn với địa phương chỉ phạt cảnh cáo rồi thả họ về.

Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và Jacques Chirac tại Hội nghị cấp cao, Hà Nội, năm 1997. Ảnh tư liệu
Nguyễn Thị Bình và Jacques Chirac tại Hội nghị cấp cao Hà Nội, 1997. Ảnh: Internet

Mỗi khi đến trại giam, bà Bình thường tìm gặp người lớn tuổi nhất hoặc nhỏ tuổi nhất, phụ nữ, người có trình độ cao để tìm hiểu nguyên nhân phạm tội. Đến trại giam Xuân Mộc, bà gặp một người đàn ông đã bị giam gần 5 năm, từng là nghiên cứu sinh vật lý ở Liên Xô. Khi về nước, ông phụ trách xí nghiệp nhưng bị thua lỗ nên bị kết tội. Bà đã đề nghị hội đồng đặc xá xem xét trường hợp này và sau đó người đàn ông đã được đặc xá.

Bà Nguyễn Thị Bình (trái) phát biểu tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris, ở Hà Nội tháng 1/2023. Ảnh: BNG
Nguyễn Thị Bình phát biểu tại lễ kỷ niệm 50 năm Hiệp định Paris (Hà Nội, 2023). Ảnh: Internet

Tháng 7/2002, bà Nguyễn Thị Bình kết thúc nhiệm kỳ Phó chủ tịch nước thứ hai.

Sau khi về hưu, bà Bình vẫn tiếp tục hoạt động với vai trò Chủ tịch Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam, Quỹ Giải thưởng Kovalevskaya, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh. Tháng 4/2003, bà tham gia thành lập Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam, và gần một năm sau, bà trở thành Chủ tịch danh dự Hội Nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Bà thường xuyên xuất hiện trên nhiều diễn đàn, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế, phát biểu về hòa bình, phát triển giáo dục, trẻ em bất hạnh, quyền bình đẳng của phụ nữ…

Tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris năm 2023, bà Socorro Gomes Coelho, nguyên Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới, đã nhớ lại: “Bà Bình khi đó được xem như một trong những biểu tượng của phụ nữ chúng tôi. Bé nhỏ, nền nã trong tà áo dài truyền thống Việt Nam nhưng rất đanh thép khi tham gia họp báo”.

Bà Corazon Valdez Fabros, phụ trách nhóm lĩnh vực hòa bình và an ninh thuộc Diễn đàn nhân dân Á – Âu, thành viên Hội đồng Hòa bình thế giới, chia sẻ: “Ôi, Madame Bình, một phụ nữ Việt Nam tuyệt vời, con người quả cảm. Ở thời chúng tôi, bà là một trong những tấm gương sáng chúng tôi muốn học hỏi”.

Trong chuyến thăm nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình vào tháng 3/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã bày tỏ lòng cảm ơn đối với những đóng góp quan trọng của bà trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong giai đoạn bà giữ cương vị Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Trưởng phái đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1973.

*Tài liệu tham khảo: Hồi ký Gia đình, bạn bè và đất nước (NXB Chính trị quốc gia Sự thật) và sách Tấm lòng với đất nước (NXB Chính trị quốc gia Sự thật).*

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *