Nạn đói 1945: Cái nhìn từ văn học

Trong giai đoạn 1930-1945, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, cuộc sống của người dân Việt Nam chìm trong cảnh bần cùng. Cái nghèo, cái đói đeo bám triền miên, đẩy họ đến tận cùng của sự khốn khổ. Bi kịch này đạt đến đỉnh điểm vào cuối Thế chiến II, khi phát xít Nhật thay thế Pháp nhưng vẫn tiếp tục chính sách bóc lột tàn bạo. Thiên tai, mất mùa, cùng với chính sách vơ vét lúa gạo, ép buộc nông dân nhổ lúa trồng đay và cắt đứt đường vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, đã gây ra nạn đói khủng khiếp, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người.

Văn chương thời kỳ này đã phản ánh chân thực dòng chảy của lịch sử. Nỗi ám ảnh về cái đói bao trùm lên mọi khuynh hướng sáng tác, từ hiện thực phê phán đến lãng mạn, từ đề tài người nông dân đến trí thức. Dù mỗi nhà văn khám phá những phận đời riêng, nhưng đều hướng đến phản ánh một bức tranh xã hội rộng lớn. Giáo sư Phong Lê nhận xét trong cuốn “Nam Cao – người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực” rằng, những năm 40, văn học hiện thực mang một dấu ấn mới: “đó là sắc xám, là nỗi lo cứ trĩu dần lên của cái đói – cái đói, như là sự kết thúc của cả một quá trình bần cùng hóa diễn ra mênh mông, trong rất nhiều dạng”.

Trong cơn đói, con người không còn nhiều sự lựa chọn. Chỉ cần có cái để ăn đã là một điều may mắn. Bữa cám của mẹ con chị “đĩ Chuột” trong truyện “Nghèo” (1945) của Nam Cao diễn ra trong im lặng, họ chỉ cố gắng nuốt để vơi đi cơn đói. Thậm chí, nhiều gia đình còn “không có cám mà ăn”, phải trộn cám với mùn cưa, bèo tây, đất sét để sống qua ngày, như được mô tả trong “Làm no” (1938) của Ngô Tất Tố. Sau này, trong “Chuyện cũ Hà Nội” (1986), Tô Hoài kể về nhân vật dì Tư sống lay lắt, ăn khô dầu: “Khô dầu nuốt vào trương bụng lên, đã vài hôm, bụng vẫn ành ạch”.

Trẻ em mút vỏ ốc thối nhặt được ngoài đường trên một đoạn đường phố tại thành phố Nam Định. Ảnh tư liệu.
Nam Định 1945: Nạn đói kinh hoàng qua ảnh tư liệu. Ảnh: Internet

Năm 1945, nạn đói bùng nổ. Số người chết lên đến hơn hai triệu, khiến Chủ tịch Hồ Chí Minh phải thốt lên: “Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ, trong sáu năm chiến tranh, nước Pháp chỉ chết một triệu người, nước Đức chỉ chết chừng ba triệu người. Thế mà, nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ ta đã chết hơn hai triệu người”.

Khung cảnh khắp nơi trở nên tiêu điều, xơ xác, bao phủ bởi một màu xám xịt. Từng đoàn người “lũ lượt bồng bế”, thất thểu dắt díu nhau đi ăn xin từ tỉnh này sang tỉnh khác. Người chết nằm la liệt, những “thây ma” không còn phân biệt được già, trẻ, gái, trai. Nỗi ám ảnh này được Văn Cao khắc họa trong bài thơ “Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc” (1945).

Tình cảnh ấy sau này còn được nhà thơ Bàng Bá Lân tái hiện một cách trần trụi trong bài thơ “Đói”, viết năm 1957, với những hình ảnh ám ảnh về những xác người chết đói nằm co quắp, bên cạnh những nấm mồ sơ sài đắp vội.

Không chỉ khắc họa hiện thực cùng cực về vật chất và vấn đề sinh tồn, các tác giả còn đi sâu vào những bi kịch tinh thần, đặt ra vấn đề về nhân cách và lương tri của con người khi bị thử thách. Miếng ăn có thể trở thành “miếng nhục”.

Bà cái đĩ trong truyện “Một bữa no” (1943) của Nam Cao đã hạ mình xin ăn ngoài chợ, bất chấp nỗi sợ hãi hai con chó dữ nhà bà Phó Thụ, để rồi ăn chực và chết vì bội thực. Nam Cao miêu tả cảnh bà lão ăn một cách vội vàng, cắm cúi, chỉ lo gắp thức ăn mà không để ý đến xung quanh, đánh rơi cả mắm ra ngoài.

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận định rằng các tác phẩm của Nam Cao về đề tài này là “tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi”.

Không chỉ người nông dân, ngay cả những cặp vợ chồng trí thức từng khá giả như Sinh và Mai trong truyện “Đói” (1937) của Thạch Lam cũng phải khuất phục trước cái đói. Mai, trong cảnh cơ hàn, chấp nhận bán thân, đánh đổi nhân phẩm và danh dự để có được bữa ăn cho cả hai. Sinh ban đầu tức giận với hành động của Mai, nhưng sau đó cũng dần đánh mất lòng tự trọng, không thể cưỡng lại được miếng ăn. Anh “cúi xuống nhìn gói đồ ăn tung tóe dưới bàn, chàng lấm lét đưa mắt nhìn quanh, không thấy Mai đứng đấy nữa… Khẽ đưa tay như ngập ngừng, sợ hãi, Sinh vớ lấy miếng thịt hồng hào. Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng nắm chặt miếng thịt trong tay, nhây nhớp mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa vào miệng”.

Trại Giáp Bát, Hà Nội, nơi tập trung những nạn nhân đói năm 1945. Ảnh tư liệu
Trại Giáp Bát: Chứng tích nạn đói 1945 ở Hà Nội (Ảnh tư liệu). Ảnh: Internet

Bằng phong cách hiện thực chủ đạo, các nhà văn giai đoạn 1930-1945 đã phơi bày nỗi thống khổ của con người, khi nhân cách bị thách thức trước nỗ lực giữ lấy sự sống. Hầu hết các tác phẩm đều kết thúc trong bế tắc và bi kịch.

Sau Cách mạng tháng Tám, hiện thực thay đổi, nhãn quan của các nhà văn cũng có sự biến chuyển. Cùng phản ánh nạn đói năm 1945, nhưng nhà văn Kim Lân, trong tác phẩm “Vợ nhặt” (1954), mang đến một cái kết khác. Khi người đàn bà nhắc tới Việt Minh, Tràng nhớ đến đoàn người đói đi phá kho thóc Nhật. Hình ảnh “đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” hiện ra trong tâm trí Tràng, mang theo niềm hy vọng của người lao động nghèo về một tương lai tươi sáng hơn.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *