Giáo sư Nguyễn Xiển, một trong những trí thức lớn của Cách mạng Tháng Tám, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nhiều lĩnh vực. Tuy trải qua gần 30 vị trí trong chính quyền, ông luôn coi 40 năm gắn bó với ngành khí tượng là “mảnh đời hữu ích nhất”. Ông không chỉ đặt nền móng cho ngành khí tượng Việt Nam mà còn giúp người dân hiểu rõ hơn về các hiện tượng thời tiết, phục vụ đắc lực cho nông nghiệp và góp phần quan trọng vào việc dự báo thời điểm xuất kích cho cách mạng.
Ít ai biết rằng, con đường đến với khí tượng của Giáo sư Nguyễn Xiển không hề định sẵn. Sinh năm 1907 tại Nghệ An, ông đỗ đầu kỳ thi tú tài Tây rồi sang Pháp du học, chuyên ngành Toán – Lý và cơ điện tại Đại học Toulouse. Sau khi về nước năm 1932, ông dạy học tại một số trường tư thục ở Hà Nội, nhưng thu nhập lại bấp bênh.
Bước ngoặt đến vào năm 1937, khi ông được Giáo sư Beachet, Tổng thanh tra giáo dục Đông Dương, giới thiệu sang làm việc trong ngành khí tượng. Lúc bấy giờ, Giám đốc Nha khí tượng Đông Dương sắp về hưu và cần một người giỏi Toán, Lý để nâng cao nghiệp vụ tính toán. Công việc mới này mang lại thu nhập hấp dẫn, hơn 230 đồng bạc, chưa kể phụ cấp, gấp ba lần lương giáo viên. Vì kế sinh nhai, ông Xiển nhận lời và bắt đầu tập sự tại đài thiên văn Phủ Liễn (Kiến An, Hải Phòng).
Trong sáu tháng đầu, ông không chỉ làm quen với ngành mà còn được giao nhiệm vụ mở lớp quan trắc viên khí tượng, chuẩn bị cho việc ra đảo Hoàng Sa thực tập và lập trạm. Bốn năm sau đó, do thiếu nhân lực, ông được điều vào Sài Gòn. Đến năm 1941, ông trở lại Hải Phòng và đảm nhận vị trí phụ trách giám đốc đài Phủ Liễn.
Càng đi sâu vào ngành, ông Xiển càng nhận thấy khí tượng chủ yếu phục vụ người Pháp, thể hiện qua việc dự báo hàng ngày đều bằng tiếng Pháp. Ông trăn trở: “Không lý gì trên núi làm dự báo, mà dưới núi người dân Kiến An không hay biết gì”. Ông đấu tranh với giám đốc người Pháp, đề xuất đào tạo cán bộ khí tượng bằng tiếng Việt, nhưng không thành. Từ đó, ông ấp ủ ý tưởng xây dựng một ngành khí tượng do người Việt tự chủ cả về quản lý và kỹ thuật.
Năm 1942, với mong muốn “truyền bá kiến thức khoa học bằng tiếng Việt, chuẩn bị cho một nền giáo dục tương lai của đất nước”, ông Xiển cùng các ông Hoàng Xuân Hãn, Đặng Phúc Thông sáng lập báo Khoa học. Bên cạnh việc dạy chữ quốc ngữ ở Hải Phòng, ông giới thiệu đến người dân những kiến thức cơ bản về mưa, nắng, bão, lũ, khí hậu Đông Dương, nhật thực, nguyệt thực.
“Tôi dồn tâm sức vào việc tự động chuẩn bị để xây dựng ngành khí tượng Việt Nam mà tôi chắc rằng thời thế nào thì đất nước cũng cần đến nó”, ông tâm niệm.
Sau Cách mạng Tháng Tám, khi đất nước giành độc lập, ông Xiển được Chính phủ giao trọng trách Chủ tịch UBND Bắc bộ, kiêm nhiệm Giám đốc Nha khí tượng Việt Nam. Ông xem đây là thời điểm ngành khí tượng Việt Nam “thực sự ra đời”. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là đôn đốc, sửa chữa các tuyến đê quan trọng như đê sông Thao, sông Lô và nhiều đoạn đê sông Hồng bị vỡ trong trận lũ lụt lịch sử năm 1945.
Khi thực dân Pháp mở rộng xâm lược, hầu hết các quan trắc viên khí tượng đã lên đường nhập ngũ. Trong rừng sâu chiến khu Việt Bắc, giữa tiếng còi báo động và tiếng máy bay gầm rú, ông Xiển vẫn kiên trì soạn thảo cuốn danh từ khí tượng và dịch tài liệu huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn sang tiếng Việt. “Tôi làm vì vẫn tin tưởng kháng chiến có ngày thành công”, ông viết trong hồi ký.

Cũng tại Việt Bắc, năm 1947, trong điều kiện thiếu thốn, Giáo sư Nguyễn Xiển đã soạn thảo hai giáo trình đại học đầu tiên bằng tiếng Việt: Toán học đại cương và Cơ học thuần lý. Từ năm 1951, ông còn tham gia giảng dạy tại trường Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp.
Mùa hè năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, nhưng ngành khí tượng phải xây dựng lại từ đầu. Ông Xiển cùng phái đoàn hữu nghị Việt Nam thăm Liên Xô và Trung Quốc, kết nối với cơ quan khí tượng các nước bạn, xin tài liệu nghiệp vụ để đào tạo cán bộ trong nước.
Ông Xiển nhớ lại những ngày “dồn dập” khi việc thì nhiều mà người lại tản mát khắp nơi. Do thiếu cán bộ trình độ cao, ông tuyển chọn một số sinh viên khoa học cơ bản rồi đào tạo chuyên ngành. Vì thiếu dự báo viên, ông đã tận dụng một sĩ quan khí tượng Nhật Bản đầu hàng và đi theo kháng chiến, người sau này lấy tên là Nguyễn Đông và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khi các lớp quan trắc đầu tiên được mở tại Hà Nội năm 1955, bài giảng đầu tiên của Giáo sư Xiển là “Bão là gì”. GS.TSKH Nguyễn Đức Ngữ, học viên của khóa học này và sau này là Tổng cục trưởng Khí tượng Thủy văn, kể lại rằng phương châm mà “tư lệnh ngành” đặt ra là “lấy nông nghiệp làm trọng điểm phục vụ”, kết hợp dự báo thời tiết bằng phương pháp hiện đại với kinh nghiệm dân gian và quan trắc vật hậu.

Trong những năm tháng máy bay Mỹ ném bom miền Bắc và tàu chiến Mỹ bắn phá bờ biển, công tác khí tượng trở thành một mặt trận. Các trạm khí tượng trở thành mục tiêu bắn phá của địch, buộc cán bộ, nhân viên vừa phải đo đạc, quan trắc để giữ vững hệ thống tín hiệu phục vụ nhân dân và cách mạng, vừa phải cầm súng chiến đấu.
Nhờ những bản tin dự báo đều đặn, ngành khí tượng không chỉ giúp đảm bảo lương thực mà còn góp phần quan trọng vào việc lựa chọn thời điểm hành quân, tiếp tế và mở chiến dịch.
Việt Nam cũng thường xuyên có mặt trong các hội nghị khí tượng thế giới, nhận được sự hỗ trợ thiết bị từ Liên Xô, Trung Quốc và Ba Lan. Theo ông Xiển, thông qua quan hệ khoa học, ngành khí tượng đã góp phần phá thế cô lập chính trị của Việt Nam trong những năm đầu miền Bắc giải phóng.

Năm 1977, ông Xiển rời ngành khí tượng Việt Nam, “nhường chỗ cho thế hệ mới trẻ hơn, có sức vươn lên mạnh mẽ hơn”. Ông tự hào viết trong hồi ký: “Cùng sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, qua thực tiễn công việc đã làm, tôi thấy mình có đủ tư cách và có quyền tự coi là một người đi đầu đóng góp sự nghiệp xây dựng ngành khí tượng Việt Nam”.
Trên Tạp chí Khí tượng Thủy văn tháng 7/2007, ông Nguyễn Đức Ngữ nhấn mạnh hai cống hiến quan trọng của Giáo sư Xiển trong 40 năm gắn bó với nghề. Thứ nhất là quan điểm về khí hậu miền Bắc. Ông Ngữ kể rằng một số nhà địa lý cho rằng miền Bắc Việt Nam có khí hậu á nhiệt đới, nên đề xuất nuôi cừu, trồng lúa mỳ, khoai tây thay cho lúa nước, khoai lang. Trong khi đó, Giáo sư Nguyễn Xiển khẳng định Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa và kiên trì tổ chức các hội nghị, bàn về bản chất và đặc điểm khí hậu để làm sáng tỏ điều này. Khoa học đã chứng minh quan điểm của ông là đúng đắn.
Thứ hai là cải cách lịch, chủ trương dùng dương lịch. Ông Xiển viết trong hồi ký rằng sau độc lập, Việt Nam khôi phục múi giờ 7, nhưng chưa có quy định cụ thể về việc dùng loại lịch nào. Ông nhiều lần kiến nghị và giữ quan điểm cần chính thức dùng dương lịch, vì đây không chỉ là cơ sở pháp lý về thời gian trong các văn kiện, giao dịch quốc tế mà còn thể hiện thái độ của người Việt trước các vấn đề khoa học, kỹ thuật. Ông cũng cho rằng cần có thái độ đúng đắn với âm lịch, vì tính chất truyền thống, có ý nghĩa trong văn hóa và lễ giáo, nhưng cần đả phá các mê tín dị đoan.
Trong ký ức của nhà báo Nguyễn Lưu, con trai thứ bảy của ông Xiển, cha ông là một trí thức mẫu mực, nghiêm khắc nhưng công bằng với 9 người con. Ông không phân biệt trai gái và không bao giờ đòi hỏi đặc quyền, đặc lợi cho các con. “Nhà tôi có 5 anh em trai, 4 người đi bộ đội, trong đó anh cả là liệt sĩ. Chỉ cậu em út bị hen suyễn nên mới không đi”, ông Lưu kể. Ông Lưu cũng cho biết cha mình sống kỷ luật, khoa học nên ít ốm đau và luôn giữ nề nếp, giờ giấc trong những lần gia đình đi sơ tán.

Với những đóng góp bền bỉ, nhà thơ Huy Cận đã gọi Giáo sư Nguyễn Xiển là “nhà khí tượng nhân dân”. Người dân ở Kiến An, Hải Phòng, quen gọi đồi Phủ Liễn là “đồi ông Xiển” và đặt cho ông cái tên thân mật là “ông thiên văn”.
Trong sổ tang tưởng nhớ Giáo sư Xiển khi ông qua đời năm 1997, nhà thơ Tố Hữu đã ghi nhận ông là nhà khoa học lớn, người đã dày công xây dựng ngành khí tượng, đào tạo nhiều thế hệ tài năng cho đất nước, qua hai câu thơ:
“Trọn đời trông gió trông mây
Trông sông, trông biển mà xây cuộc đời
Một lòng vì Nước, vì Người”.
Giáo sư Nguyễn Xiển đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương và Giải thưởng Hồ Chí Minh, ghi nhận những cống hiến to lớn của ông cho đất nước.
Admin
Nguồn: VnExpress