Bác sĩ Tôn Thất Tùng: Cha đẻ của phương pháp mổ gan siêu nhanh

Giáo sư Tôn Thất Tùng, một nhà phẫu thuật gan nổi tiếng thế giới, sinh năm 1912 và qua đời năm 1982, hưởng thọ 70 tuổi. Ông đã có những đóng góp mang tính đột phá cho ngành y học, đặc biệt là trong lĩnh vực phẫu thuật gan.

Năm 1939, bác sĩ Tôn Thất Tùng bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp y khoa tại Pháp với đề tài “Cách phân chia mạch máu của gan”. Công trình này, còn được biết đến với tên gọi phương pháp cắt gan khô, đã được Đại học Tổng hợp Paris trao tặng huy chương bạc. Tuy nhiên, ý tưởng новаторское này đã vấp phải sự phản đối gay gắt từ Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris và nhiều giáo sư đầu ngành thời bấy giờ.

Giáo sư Đặng Hanh Đệ, một học trò của Giáo sư Tùng, người từng là chủ nhiệm phẫu thuật Khoa Tim mạch, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, nhớ lại rằng phương pháp của thầy Tùng bị phản đối do vào những năm 1939-1940, phương pháp mổ cắt gan từ cuống được xem là kỹ thuật kinh điển.

Giáo sư Đệ giải thích: “Cắt gan từ cuống là một kỹ thuật mổ kéo dài từ 3 đến 6 giờ, gây mất máu nhiều cho bệnh nhân. Trong khi đó, phương pháp của thầy Tùng cắt từ ngoài vào thẳng cuống gan, thời gian mổ được rút ngắn chỉ còn 4-8 phút, hiệu quả cao hơn nhưng đòi hỏi phẫu thuật viên phải nắm vững cấu trúc giải phẫu bên trong gan”.

Trước những hạn chế của phương pháp mổ cắt gan từ cuống, bác sĩ Tùng đã đặt ra câu hỏi: “Đường nào mổ gan nhanh mà ít máu?”. Trong một lần, khi phát hiện gan của một bệnh nhân Việt Nam có giun chui vào đường mật, ông đã nảy ra ý tưởng nghiên cứu cơ cấu lá gan. Từ năm 1935 đến 1939, ông đã tỉ mỉ phẫu tích hơn 200 lá gan trên tử thi bằng con dao cạo thô sơ để nghiên cứu các mạch máu và vẽ lại thành sơ đồ đối chiếu, từ đó rút ra những bài học quan trọng. Cuối cùng, ông đã nắm vững sự phân chia của các mạch máu trong gan, quan hệ của các mạch này so với bề mặt ngoài gan, và sáng tạo ra phương pháp cho phép cắt gan chỉ trong vòng 4-8 phút, giảm thiểu chảy máu và tổn thương cho bệnh nhân.

Đến năm 1952, tại hội nghị phẫu thuật quốc tế ở Copenhagen, Đan Mạch, phương pháp cắt gan của bác sĩ Tùng mới chính thức được giới y khoa thế giới công nhận và gọi là phương pháp cắt gan khô hoặc phương pháp Tôn Thất Tùng. Ông được giới y khoa quốc tế vinh danh là “người cha của cắt gan có quy phạm”. Nhiều bác sĩ nước ngoài đã đến Việt Nam để trực tiếp quan sát phẫu thuật và học hỏi kinh nghiệm từ ông.

Giáo sư Tôn Thất Tùng được xem là một cây đại thụ của y khoa Việt Nam, người đã có nhiều cống hiến to lớn cho ngành y trên cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại khoa (Đại học Y Hà Nội), Giám đốc Bệnh viện Việt – Đức, và Thứ trưởng Y tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông đã đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ tài năng cho đất nước, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Viện sĩ Viện hàn lâm Y học Liên Xô, Viện sĩ Viện hàn lâm Phẫu thuật Paris, và hội viên Hội các nhà phẫu thuật Lyon (Pháp).

Mặc dù xuất thân từ dòng họ hoàng tộc thời Nguyễn, ông không chọn con đường làm quan mà theo đuổi sự nghiệp y học. Năm 1931, ông ra Hà Nội học trường Trung học Bảo hộ (trường Bưởi, nay là trường Chu Văn An) rồi trường Y – Dược của Đại học Đông Dương. Ba năm sau, ông được chọn cùng 10 sinh viên khác làm ngoại trú tại Bệnh viện Phủ Doãn, và sau đó là người duy nhất được nhận vào làm việc tại khoa ngoại trường Y – Dược, tức Bệnh viện Việt – Đức ngày nay.

Giáo sư Đặng Hanh Đệ - học trò xuất sắc của Tôn Thất Tùng. Ảnh: Thúy Quỳnh
Giáo sư Đặng Hanh Đệ, học trò của Giáo sư Tôn Thất Tùng (Ảnh: Thúy Quỳnh). Ảnh: Internet

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nền y tế Việt Nam lúc bấy giờ còn rất sơ khai. Cả nước chỉ có 130 bác sĩ, chủ yếu khám chữa các bệnh thông thường. Việt Nam bị cô lập với thế giới, thiếu thốn sách vở và thông tin về sự phát triển của y học thế giới.

Trong bối cảnh đó, năm 1947, bác sĩ Tùng nhận chức Thứ trưởng Bộ Y tế với trọng trách xây dựng và phát triển nền y tế Việt Nam. Đến năm 1954, ông mới có cơ hội tiếp xúc với nền y tế Liên Xô, Trung Quốc, và trực tiếp mời chuyên gia về hướng dẫn, từ đó phát triển các chuyên ngành như tiêu hóa, thần kinh, xương khớp, tiết niệu. Tim mạch là chuyên khoa cuối cùng được hình thành, vào năm 1960.

Bác sĩ Tùng được ghi nhận là bác sĩ Việt Nam đầu tiên thực hiện ca mổ tim cho bệnh nhân. Giáo sư Đệ cho biết, “mổ tim hở ở Việt Nam thời ấy là cả một công trình lớn, khi điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn”. Giáo sư Đệ khi đó là sinh viên y khoa đã theo thầy Tùng học nghề.

[Camm
Giáo sư Tùng thuyết trình y khoa (Ảnh: GS. Đệ cung cấp). Ảnh: Internet

Ca phẫu thuật tim đầu tiên của bác sĩ Tùng diễn ra năm 1958, sau khi ông sang Ấn Độ học kỹ thuật này. Ông đã sử dụng máy tim phổi nhân tạo để thay thế chức năng của tim, sau đó mở tim bệnh nhân ra để sửa chữa. Ca mổ diễn ra thành công tốt đẹp. Bác sĩ Gibbon (Mỹ), người tiên phong trong lĩnh vực mổ tim hở với máy tim phổi trên thế giới, đã gửi thư chúc mừng bác sĩ Tùng.

“Mỹ lần đầu mổ tim hở năm 1954, Việt Nam mổ tim năm 1965, khoảng cách 11 năm. Trong hoàn cảnh chiến tranh, đó là một thành tựu to lớn của ngành y”, bác sĩ Tùng từng nói.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phát triển y tế chuyên sâu, bác sĩ Tùng trở về công tác tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, phát triển khoa Sọ não và Ngoại Nhi. Giáo sư Đệ kể lại rằng thời đó không ai hình dung được mổ sọ não sẽ như thế nào. Để mổ sọ não, cần phải có khoa Gây mê, nhưng khi ấy cũng chưa ai hình dung được gây mê như thế nào. Bác sĩ Tùng xác định cần phải có khoa Gây mê thì các chuyên khoa khác mới phát triển được, bởi Gây mê bao trùm lên tất cả chuyên khoa, phụ trách hồi sức, phục hồi sức khỏe cho người bệnh.

Để giải quyết vấn đề “gây mê như thế nào để bệnh nhân không đau”, bác sĩ Tùng và các cộng sự đã tận dụng những phương pháp thô sơ theo điều kiện vật chất hiện có, như nhỏ thuốc mê vào mũi bệnh nhân, hoặc gây mê nội khí quản bằng cách đặt một ống vào họng bệnh nhân, đưa thuốc vào quả bóng và bóp cho phổi nở lên xẹp xuống. Khoa Gây mê đầu tiên của Việt Nam đã ra đời như vậy.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Giáo sư Tôn Thất Tùng đã tổ chức, xây dựng Trường đại học Y khoa, đào tạo nhiều thầy thuốc quân và dân y cho đến ngày thống nhất đất nước. Sau đó, ông tập trung vào công việc chuyên môn là Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và Chủ nhiệm bộ môn Ngoại của Trường Đại học Y Hà Nội.

Giáo sư Đệ nhớ lại rằng thầy Tùng là một người nóng tính, gay gắt, nhưng tất cả đều xuất phát từ nguyên tắc “làm nghề là không làm gì có hại cho người bệnh”. Ông kể rằng trong những ca mổ, nếu các phụ tá không thực hiện đúng quy trình, thầy Tùng không ngần ngại la mắng, thậm chí vứt dụng cụ phẫu thuật. Ngay cả ông Đệ, khi phụ mổ cho thầy Tùng, cũng không ít lần bị thầy mắng vì thao tác không đúng.

Giáo sư Tôn Thất Tùng nghiên cứu trên bệnh phẩm - gan khô. Ảnh: Tư liệu
Nghiên cứu bệnh gan khô của Giáo sư Tôn Thất Tùng (Ảnh: GS. Đặng Hanh Đệ). Ảnh: Internet

Giáo sư Đệ kể lại một kỷ niệm: “Một hôm, một bác sĩ Bệnh viện Lao phổi mang hồ sơ bệnh nhân vào, tôi nhìn tấm phim chụp và nhận xét ‘bệnh nhân có lẽ đã bị lao phổi’, nhưng thầy Tùng lập tức phản bác ‘không thể suy nghĩ theo kiểu đó được, phải nghĩ là ung thư phổi'”. Lý do là nếu nghĩ bệnh nhân bị lao phổi, bác sĩ sẽ đi theo hướng điều trị lao phổi. Tuy nhiên, nếu về sau phát hiện bệnh nhân thực sự bị ung thư thì việc điều trị đã muộn. “Bác sĩ không được chủ quan, phải dự phòng và nghĩ tới phương án xấu nhất, tìm tất cả dấu hiệu chẩn đoán cho đúng, không được đại khái”, thầy Tùng đã dạy học trò của mình như vậy.

Giáo sư Đệ luôn ghi nhớ lời thầy Tùng dạy: “Ngày mai mổ cái gì thì tối nay hãy nhớ lại dấu hiệu của người bệnh để chuẩn bị”. Khi mổ, trong đầu phải luôn có kế hoạch, không được lúng túng, bị động. Ví dụ, trước khi mổ cho một bệnh nhân có khối u trong bụng, bác sĩ phải nghĩ đến trường hợp xấu nhất.

“Làm việc với thầy Tùng hơn 20 năm, tôi đã học được nhiều kinh nghiệm xương máu mà suốt đời không bao giờ quên”, Giáo sư Đệ chia sẻ, đồng thời cho biết ông là một trong số ít học trò của Giáo sư Tôn Thất Tùng còn sống đến ngày nay.

Con trai của Giáo sư Tùng, Phó giáo sư Tôn Thất Bách, cũng là một bác sĩ mổ tim và gan mật trình độ cao, đã cứu sống nhiều bệnh nhân. Giáo sư Bách đã có hơn 25 năm cống hiến cho ngành y tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, và qua đời năm 2004.

Giáo sư Tôn Thất Tùng qua đời ngày 7 tháng 5 năm 1982 tại Hà Nội. Để tôn vinh những thành tựu y khoa mà ông đã đạt được, vào ngày 10 tháng 5 năm 2022, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh của ông, Google đã thay đổi ảnh đại diện logo trên trang chủ bằng hình ảnh Giáo sư Tôn Thất Tùng. Tên tuổi và những đóng góp của ông sẽ mãi được ghi nhớ trong lịch sử y học Việt Nam và thế giới.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *