Gia đình Tổng đốc Vi Văn Định: Những ngày ở chiến khu

Phó giáo sư Nguyễn Văn Huy, 80 tuổi, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trân trọng gọi chiếc vali cũ kỹ đã sờn màu thời gian là “báu vật”. Chiếc vali này từng theo chân mẹ ông, bà Vi Kim Ngọc, cùng đại gia đình Tổng đốc Vi Văn Định trong suốt 9 năm kháng chiến gian khổ ở Việt Bắc. Nó chứa đựng câu chuyện về một quyết định quan trọng, một lựa chọn đã thay đổi số phận cả một dòng họ và góp phần vào lịch sử dân tộc.

Cụ Vi Văn Định, thuộc dòng dõi 14 đời làm thổ ty trấn giữ biên ải Lạng Sơn, từng là một trong những vị quan lớn của triều đình, giữ chức Tổng đốc Thái Bình, Hà Đông. Các con của cụ đều kết hôn với những trí thức ưu tú: con gái Vi Kim Phú là vợ của giáo sư y khoa Hồ Đắc Di, Vi Kim Ngọc là vợ của giáo sư Nguyễn Văn Huyên, và cháu gái Vi Nguyệt Hồ là vợ của giáo sư Tôn Thất Tùng.

Trước Cách mạng Tháng Tám, gia đình họ sống trong những biệt thự rộng lớn, tham gia những buổi tiệc tao nhã và đàm đạo văn chương. Tuy nhiên, đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng ấy là sự bất bình của một vị quan thanh liêm trước ách đô hộ của thực dân và sự suy yếu của triều đình. Năm 1942, cụ Vi Văn Định từ quan về quê, quyết không hợp tác với Pháp.

Uy tín và tầm ảnh hưởng của gia tộc cụ lớn đến mức, trước khi sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Thứ trưởng Nội vụ Hoàng Hữu Nam phải mời bằng được cụ Vi về Hà Nội, để ngăn chặn việc Pháp lôi kéo, thành lập “Xứ Nùng tự trị”.

Nhiệm vụ tưởng chừng khó khăn, nhưng khi ông Hoàng Hữu Nam ngỏ lời, cụ Vi Văn Định đã đồng ý ngay lập tức. Sự tham gia của cụ và gia đình bên cạnh Chính phủ kháng chiến trở thành một biểu tượng mạnh mẽ, củng cố niềm tin cho nhân dân.

**Hành trình lên Việt Bắc**

Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, một chiếc xe của Chính phủ bí mật đón vợ chồng cụ Vi lên chiến khu. Cùng lúc đó, các con cháu cụ, những gia đình trí thức lớn, cũng nhận được lời dặn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Các anh chị đưa các cháu ra khỏi Hà Nội để Chính phủ lo đối phó với bọn Pháp và Tàu. Khi nào ổn định lại trở về”.

Tại chiến khu Định Hóa (Thái Nguyên) rồi Tân Trào (Tuyên Quang), cụ Vi sống gần Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Tôn Đức Thắng và được giao nhiều nhiệm vụ vận động đồng bào ủng hộ cách mạng.

Con trai cụ, Vi Văn Kỳ, cũng từ chối lời mời làm tỉnh trưởng của Pháp để tham gia chiến đấu ở Thanh Hóa. Các cháu trai đều gia nhập Vệ quốc đoàn, có người theo đoàn quân Nam tiến.

Ba gia đình giáo sư Tôn Thất Tùng, Hò Đắc Di và Nguyễn Văn Huyên ở Việt Bắc. Ảnh: Gia đình cung cấp
Gia đình các giáo sư Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên ở Việt Bắc. Ảnh: Internet

Cuộc tản cư là một cuộc chạy đua với tử thần. Bom đạn địch ném đến đâu, họ phải di chuyển đến đó. Những đứa trẻ chưa kịp quen tên làng đã phải vội vã rời đi. Có những nơi, họ đi qua những vũng máu còn vương lại. Có những nơi, họ chứng kiến cảnh “tiêu thổ kháng chiến”, nhà cửa, đường sá bị phá hủy để ngăn bước tiến của quân thù.

Cái chết luôn rình rập. Một buổi chiều gần Phú Thọ, tiếng hô “Máy bay!” vang lên xé tan sự yên tĩnh. Mọi người vội vã tìm chỗ ẩn nấp bên vệ đường. Bà Ngọc chỉ kịp ôm chặt bốn đứa con thơ cùng người em vào lòng.

Bà Nguyễn Kim Nữ Hạnh, con gái Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, viết trong hồi ký: “Trên đầu, tiếng động cơ rè rè của ‘máy bay bà già’ quần thảo. Chúng tôi nằm trong vòng tay mẹ, dưới tấm chăn chiên Nam Định, trước mắt chỉ còn thảm cỏ và bụi sim xanh rờn”.

Cụ Vi Văn Định (thứ 2 từ trái sang) cùng Bác Hồ tại Hội nghị thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt tại ATK Chiêm Hóa, Tuyên Quang năm 1951. Ảnh: Gia đình cung cấp
Cụ Vi Văn Định và Bác Hồ tại Hội nghị Việt Minh, Chiêm Hóa 1951. Ảnh: Internet

Trong một đợt càn quét ác liệt năm 1947 ở Chiêm Hóa, ba gia đình phải ẩn náu trong rừng, tiếng súng của quân địch chỉ cách vài chục mét. Giữa không gian im lặng đến nghẹt thở, bé Huy, lúc đó mới hơn một tuổi, bỗng òa khóc. Ngay lập tức, một cái tát của người cha, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, giáng xuống. Đứa trẻ im bặt. Trong tích tắc, toán lính đi qua mà không phát hiện ra họ.

“Đó là lần duy nhất cha đánh tôi,” ông Huy kể lại, “Và đến giờ tôi vẫn không hiểu vì sao cái tát ấy khiến mình im ngay lập tức”. Đó là cái tát của tình yêu thương, của sự bảo vệ tuyệt đối trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.

Đến những năm 1950, gia đình Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên và giáo sư Hồ Đắc Di sống chung trong một lán dài ở làng Ải (Chiêm Hóa), cách đó khoảng 100 mét là nhà sàn của gia đình ông Tôn Thất Tùng. Trên những triền đồi xung quanh, gia đình các ông Đặng Thai Mai, Trần Duy Hưng, Võ Nguyên Giáp cũng cùng nhau sinh sống.

Lán của ông Huyên và Di thường xuyên đón khách, trong đó có nhà toán học Lê Văn Thiêm, nhà triết học Trần Đức Thảo và vị tướng trẻ Hoàng Minh Thảo.

Trong ký ức của mình, ông Nguyễn Văn Huy còn nhớ giáo sư Thiêm rất thích hút thuốc lào, giống như giáo sư Di. Cậu bé Tôn Thất Bách tinh nghịch, có lần lén bôi nhọ nồi quanh vành điếu, khiến các bậc trưởng bối sau khi hút xong đều bị lem miệng một vòng đen, gây ra những tràng cười sảng khoái.

Cuộc sống nơi chiến khu hoàn toàn tự cung tự cấp. Họ trồng bắp cải, cà chua trước và sau nhà, nuôi gà, nuôi dê để lấy sữa cho trẻ nhỏ. Những người mẹ ngày đêm chăm lo gia đình, dạy học, thăm hỏi thương binh, còn những người cha gánh vác những trọng trách lớn lao của đất nước.

Giáo sư Hồ Đắc Di, hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược kháng chiến, tận tâm chăm sóc thương binh, đặt nền móng cho nền y học Việt Nam.

Giáo sư Tôn Thất Tùng, Thứ trưởng Bộ Y tế, vừa đào tạo đội ngũ y bác sĩ, chăm sóc sức khỏe cho Bác Hồ, vừa cùng giáo sư Đặng Văn Ngữ nghiên cứu sản xuất penicillin trong điều kiện thiếu thốn.

Giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Giáo dục, thực hiện cải cách giáo dục phù hợp với thời chiến, mở mang đại học, trực tiếp đi khắp miền Bắc, miền Trung để xóa nạn mù chữ, phát triển các trường phổ thông.

Trong những khó khăn thiếu thốn nơi chiến khu, thử thách lớn nhất đối với gia đình lại đến từ bệnh tật của cô bé Nguyễn Nữ Kim Hiếu. Giữa rừng thiêng nước độc, Hiếu liên tục sốt cao, đầu gối sưng tấy, sau này mới biết là bị lao xương.

Vắng chồng, thương con, trong hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, bà Vi Kim Ngọc hoàn toàn có thể đưa con về Hà Nội để chữa trị. Nhưng bà đã không làm như vậy. Niềm tin vào con đường cách mạng, niềm tin vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và tương lai của dân tộc đã giúp bà vượt qua nỗi đau.

GIa đình cụ Vi Văn Định trong đám cưới con gái Vi Kim Ngọc và chàng rể Nguyễn Văn Huyên, bộ trưởng Giáo dục giai đoạn 1946-1975. Ảnh: Gia đình cung cấp
Đám cưới con gái cụ Vi Văn Định và Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên (1946-1975). Ảnh: Internet

Bà Ngọc viết trong nhật ký: “Tổ quốc lâm nguy, cả nước đoàn kết cứu nước. Có cứu được nước mới cứu được gia đình. Các con chịu đựng gian khó nhé! Khổ cùng cha mẹ để mai sau các con được sung sướng, khỏi phải làm dân mất nước, dân nô lệ”.

Không có thuốc men đầy đủ, giáo sư Tôn Thất Tùng quyết định tự chữa trị cho bé Hiếu. Mỗi khi có máy bay địch, chị bế em, dì bế cháu thay nhau cõng Hiếu xuống hầm trú ẩn. Không ít lần, khi tiếng bom vừa dứt, vội vã chạy về lớp học, họ lại quên mất người em nhỏ vẫn còn ở dưới hầm.

Hai năm dài đằng đẵng trôi qua, đến ngày tháo bột, hàng chục người hồi hộp đứng quanh. Khi lớp bột cuối cùng được gỡ bỏ, bé Hiếu đứng dậy, loạng choạng, rồi bước đi một, hai bước về phía mẹ. Khoảnh khắc ấy, người mẹ ôm con vào lòng, vỡ òa trong hạnh phúc. Những người xung quanh cũng ôm nhau reo hò như quân ta vừa giành chiến thắng. Bàn chân tưởng chừng như tàn phế, nay đã hồi sinh.

Cuối năm 1954, đại gia đình Tổng đốc trở về Hà Nội trên những chiếc bè nứa xuôi dòng sông Hồng, cập bến Bác Cổ. Trong ký ức của cậu bé Nguyễn Văn Huy khi ấy mới 9 tuổi, “chưa bao giờ nghe thấy nhiều tiếng còi ô tô đến thế”.

Thời gian đầu, ba gia đình lại quây quần bên nhau trong căn biệt thự số 9 phố Lê Thánh Tông. Gia đình ông Di ở tầng một, ông Huyên và ông Tùng ở tầng hai. Các chị em, con cháu tiếp tục nương tựa vào nhau như những năm tháng chiến tranh.

Trong dịp đất nước kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, câu chuyện về những con người ấy lại được nhắc nhớ. Lịch sử vĩ đại của dân tộc không phải là một điều gì đó xa vời, mà bắt đầu từ những lựa chọn dũng cảm của từng cá nhân và gia đình, như gia đình cụ Vi.

Đứng bên chiếc vali bằng duralumin – loại vật liệu dùng để chế tạo vỏ máy bay – trong bảo tàng gia đình, ông Huy chia sẻ rằng nhờ có nó mà gia đình ông đã giữ gìn được nguyên vẹn nhiều bức ảnh, nhật ký, thư từ trong suốt những năm tháng tản cư ở Việt Bắc. Những kỷ vật vô giá đó, cùng với câu chuyện về gia đình cụ Vi, mãi là minh chứng cho tinh thần yêu nước và sự hy sinh cao cả vì độc lập, tự do của dân tộc.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *