Nhãn xanh, hay còn gọi là nhãn sinh thái, đang nổi lên như một công cụ chính sách hiệu quả, thúc đẩy các doanh nghiệp và người tiêu dùng chuyển hướng sang các sản phẩm thân thiện với môi trường hơn. Mô hình này đã được triển khai thành công tại nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và các nước châu Âu. Đơn cử như tại Nhật Bản, thị trường sản phẩm nhãn xanh đã đạt quy mô ấn tượng 44 tỷ USD chỉ trong năm 2016.
Tại Việt Nam, hành lang pháp lý cho nhãn xanh đã được thiết lập từ Luật Bảo vệ Môi trường các năm 2005, 2014 và tiếp tục được hoàn thiện trong Luật năm 2020. Tuy nhiên, sau hai thập kỷ triển khai, hiệu quả của công cụ này vẫn còn khá khiêm tốn.
Trong khuôn khổ tọa đàm “Thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái” diễn ra ngày 27/8, ông Nguyễn Trung Thắng, Phó viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết từ năm 2024 đến nửa đầu năm 2025, cả nước chỉ có thêm 13 sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái.
Các sản phẩm đạt chứng nhận nhãn sinh thái chủ yếu là các loại túi nilon phân hủy sinh học hoặc túi làm từ nhựa PE với hàm lượng vật liệu tái chế trên 20%. Tiêu chí nhãn sinh thái, trước đây được biết đến là chương trình “nhãn xanh”, do Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố và cập nhật danh mục sản phẩm, dịch vụ, với hiệu lực kéo dài ba năm.
Ông Lê Hoài Nam, Phó cục trưởng Môi trường, chỉ ra rằng số lượng sản phẩm nhãn sinh thái còn hạn chế do năng lực của các doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực để đổi mới công nghệ, cùng với đó là các chính sách ưu đãi chưa thực sự rõ ràng.

Ví dụ, túi nilon khó phân hủy phải chịu mức thuế bảo vệ môi trường lên tới 50.000 đồng/kg, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích chuyển đổi sang các loại túi thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục sản xuất túi nilon thông thường, gây khó khăn cho các sản phẩm túi phân hủy sinh học hoặc tái chế trong việc cạnh tranh về giá.
Ông Nguyễn Lê Thăng Long, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần nhựa An Phát Xanh, chia sẻ kinh nghiệm từ thị trường Pháp, nơi ông tham gia từ năm 2014. Ban đầu, cuộc cạnh tranh công nghệ giữa các doanh nghiệp sản xuất đẩy giá thành sản phẩm lên cao. Tuy nhiên, đến năm 2020, khi thị trường phát triển mạnh mẽ hơn và hệ sinh thái hoàn thiện với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu, giá thành của loại túi này đã giảm một nửa.
“Điều này tạo động lực giúp thị trường phát triển gấp 3-4 lần, dù vẫn chưa đạt được kỳ vọng của chúng tôi”, ông Long cho biết.
Về phía người tiêu dùng, ông Nguyễn Trung Thắng nhận định rằng người tiêu dùng trong nước hiện vẫn quan tâm nhiều hơn đến an toàn thực phẩm so với các vấn đề môi trường.
Đại diện An Phát Xanh cũng cho rằng thị trường Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn tương tự như Pháp trước đây. Việc thay đổi thói quen từ sử dụng túi nilon sang túi giấy hoặc túi phân hủy sinh học cần nhiều thời gian để định hình. Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của truyền thông trong việc thay đổi nhận thức của người tiêu dùng. Ví dụ, nếu người tiêu dùng hiểu rằng việc sử dụng túi phân hủy để bọc thực phẩm sẽ tránh được nguy cơ nhiễm hạt vi nhựa so với túi nilon thông thường, thì việc chuyển đổi sẽ diễn ra hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh thị trường nhãn sinh thái trong nước còn rất nhỏ, việc tạo lập và phát triển thị trường là một trong ba nhóm chính sách trọng tâm mà các cơ quan chức năng đang tập trung. Theo Phó cục trưởng Môi trường Lê Hoài Nam, Nhà nước sẽ đóng vai trò tiên phong và dẫn dắt thị trường thông qua chính sách ưu tiên mua sắm công xanh, từ đó khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân và người dân.
Nhóm chính sách thứ hai bao gồm các quy định hành chính, cấm hoặc hạn chế các sản phẩm có nguy cơ gây ô nhiễm. Theo lộ trình giảm nhựa quy định tại Nghị định 08 năm 2022, Việt Nam sẽ cấm hoàn toàn sản xuất và tiêu dùng nhựa dùng một lần sau ngày 31/12/2030.
Lộ trình này sẽ được triển khai sớm hơn tại các tỉnh, thành phố, với việc cấm sử dụng nhựa một lần và túi nilon khó phân hủy tại các siêu thị, trung tâm thương mại, khách sạn, khu du lịch từ đầu năm 2026. Tại Hà Nội, việc cấm các loại nhựa này sẽ được áp dụng ngay trong quý IV năm nay đối với các nhà hàng, khách sạn, cửa hàng đồ uống, quán ăn trong Vành đai 1, và sẽ được nhân rộng trong những năm tiếp theo.
Ông Nam nhấn mạnh rằng mục tiêu mạnh mẽ này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng phát triển các sản phẩm thay thế để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Nhóm chính sách thứ ba là các công cụ kinh tế, bao gồm thuế, phí và ưu đãi tài chính. Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xanh có thể tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ các ngân hàng thương mại hoặc Quỹ Bảo vệ Môi trường.
Ngoài ra, Bộ Tài chính đang chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường sửa đổi Luật Thuế bảo vệ môi trường theo hướng bổ sung một số nhóm hàng hóa có nguy cơ gây ô nhiễm vào diện chịu thuế, bên cạnh túi nilon, và dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào năm tới.
Admin
Nguồn: VnExpress