Cuối tháng 8, trong ngôi nhà nhỏ ở xã Mỏ Cày (Bến Tre), bà Nguyễn Thị Tâm, 86 tuổi, cẩn thận thắp nén hương tưởng nhớ người chồng đã khuất. Đôi tay bà run run, những ngón tay co rút, dấu vết hằn sâu của những trận tra tấn tàn khốc năm xưa.
Sau Hiệp định Geneva năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm thiết lập hệ thống đồn bốt, đàn áp dã man phong trào cách mạng tại miền Nam. Riêng tại Bến Tre, vào cuối năm 1959, hàng nghìn người dân vô tội bị sát hại, hơn 17.000 người bị giam cầm. Số lượng đảng viên từ hơn 2.000 người giảm xuống chỉ còn vỏn vẹn 162 người.
Đầu tháng 1 năm 1960, Tỉnh ủy Bến Tre quyết định phát động nhân dân đứng lên khởi nghĩa tại ba xã điểm: Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp thuộc huyện Mỏ Cày. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng, trở thành cao trào “Đồng Khởi” vang dội.
Từ phong trào này, hình ảnh “đội quân tóc dài” ra đời, tập hợp những người phụ nữ nông thôn dũng cảm. Dù không có vũ khí trong tay, họ đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh. Đội quân đặc biệt này do bà Nguyễn Thị Định (sau này là Phó Chủ tịch nước) chỉ huy, với quân số có thời điểm lên tới hàng triệu người.
Bà Nguyễn Thị Tâm, khi ấy mới 16 tuổi, đã sớm tham gia vào các hoạt động như vót chông, đào hầm bí mật, phá hoại đường giao thông của địch. Đến năm 22 tuổi, bà trở thành Phó ban chỉ đạo đấu tranh của xã.
“Đội quân tóc dài” được tổ chức thành ba lực lượng chính. Lực lượng xung kích trực diện, thường gồm những người trẻ khỏe, có người thân là chiến sĩ cách mạng. Lực lượng tiếp viện, sẵn sàng kéo đến bao vây đồn bốt địch để đòi người khi có ai bị bắt giữ. Và lực lượng hậu cần, chủ yếu là những phụ nữ lớn tuổi, đảm nhiệm việc trông nom nhà cửa, con cái, để các thành viên khác yên tâm tham gia chiến đấu.

Nhiệm vụ thường xuyên của bà Tâm là “đi chợ nhồi”, tức là đi chợ nhiều lần trong ngày để nắm bắt tình hình, theo dõi động tĩnh của địch. Mỗi khi địch mở các cuộc càn quét, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, đội quân tóc dài lại tổ chức “tản cư ngược”: hàng nghìn người dân, mang theo khăn tang, bồng bế con nhỏ, dắt theo những con gia súc bị giết hại, kéo thẳng đến dinh quận để đòi công lý.
Vào một ngày giữa năm 1961, bà Tâm được giao nhiệm vụ mang đơn phản đối đến bót xã Hương Mỹ. Đoàn người khoảng 200 người bị địch chặn lại. Bà nhanh trí tìm cách thoát ra ngoài, trở về báo tin cho Ban chỉ đạo. Ngay lập tức, Ban chỉ đạo huy động thêm 400 người đến tiếp ứng.

Quân địch hoảng sợ, đã nổ súng vào đoàn phụ nữ tay không tấc sắt. “Một chị ngay trước mặt tôi trúng đạn hy sinh, tám người khác cũng ngã xuống”, bà Tâm nghẹn ngào kể lại.
Sau đó, bà bị bắt giam, trải qua những ngày phơi nắng, bỏ đói, rồi bị đưa về thị trấn để thẩm vấn. Quá trình thẩm vấn kéo dài suốt nhiều tháng trời.
Địch dùng điện tra tấn dã man, khiến bà nhiều lần ngất đi. Chúng đánh đập, dập nát bàn tay bà, ép bà khai ra tổ chức. Nhưng bà chỉ một mực trả lời: “Tôi chỉ đi chợ thì bị bắt, không biết gì về đấu tranh cả”. Sau ba tháng giam cầm và tra tấn dã man mà không moi được thông tin gì, cuối cùng chúng buộc phải thả bà.
Ngày bà trở về, hàng trăm đồng đội và người dân đã ra đón bà. Sau đó, bà tiếp tục tham gia phong trào phụ nữ, rồi trở thành Bí thư Huyện đoàn.
Năm 1968, bà lập gia đình. Nhưng hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, khi con trai đầu lòng chưa đầy tháng tuổi thì chồng bà đã hy sinh. Gửi con cho anh trai nuôi, bà tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Mãi đến sau ngày thống nhất đất nước, khi gặp lại mẹ, con trai bà đã 7 tuổi, ngơ ngác hỏi: “Bà này là ai mà bắt con gọi bằng mẹ?”.
Cách nhà bà Tâm không xa, bà Nguyễn Thị Cai, 86 tuổi, sống ở xã Đồng Khởi. Cùng tuổi với bà Tâm, bà Cai cũng sớm giác ngộ và tham gia phong trào cách mạng. Ngoài những cuộc xuống đường biểu tình, bà còn được giao nhiệm vụ làm liên lạc cho Tỉnh ủy.
Nhiệm vụ của bà là đưa thư từ, tài liệu cho bà Nguyễn Thị Định và các lãnh đạo tỉnh tại căn cứ. Con đường chỉ dài hơn 2 km nhưng bị ba trung đội địch bao vây, canh gác. Thư từ được bà khéo léo giấu trong giỏ chuối khô, ngụy trang nhiều lớp để tránh bị phát hiện.

Vào một ngày giáp Tết năm 1959, trên đường đi giao tài liệu, bà Cai bất ngờ gặp phải một toán lính tuần tra. Chúng nghi ngờ, đòi kiểm tra giỏ của bà. Bà nhanh trí nói rằng mang chuối khô cho dì để làm kẹo, rồi giả vờ đau chân ngồi nghỉ để kéo dài thời gian. May mắn thay, bà gặp được một người quen, liền gọi lớn xin cau để ăn trầu. Nhờ vậy, bà có cớ vào nhà người quen để lánh mặt, còn toán lính kia thì bỏ đi.
Nhiều lần khác, bà bị bắt giam cùng với hơn 20 người khác trong một căn phòng chật hẹp chỉ khoảng 10 m2. Một chiếc hũ nhỏ được dùng chung cho việc vệ sinh cá nhân, ban đêm mọi người phải gối đầu lên nhau để ngủ. “Tra tấn không ăn thua, địch lại đổi chiến thuật tung tin đồn rằng các chị em khác đã khai hết rồi, hòng chia rẽ nội bộ chúng tôi, nhưng chúng đã thất bại”, bà Cai kể lại.
Từ năm 1961 đến năm 1964, “đội quân tóc dài” cùng với nhân dân Bến Tre đã tổ chức được 80.000 lượt đấu tranh lớn nhỏ, thu hút khoảng ba triệu lượt người tham gia. Nhờ đó, hơn 20.400 người không bị bắt lính, hơn 700 căn nhà không bị đốt phá, hàng triệu lượt người dân không bị cướp bóc. Đầu năm 1964, từ lực lượng nòng cốt này, đại đội vũ trang C.710 (bộ đội Thu Hà) đã được thành lập.
Những chiến công hiển hách của “đội quân tóc dài” đã được lịch sử ghi nhận. Nhiều tấm gương điển hình đã được nêu lên để khắc họa vai trò to lớn của những người phụ nữ Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Vào cuối tháng 2 vừa qua, tỉnh Bến Tre (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long) đã long trọng tổ chức hội thảo khoa học cấp quốc gia về vai trò của “đội quân tóc dài” và phong trào “Ba đảm đang”. Ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, nhấn mạnh rằng các phong trào này đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước của phụ nữ, biến tinh thần đó thành những hành động cụ thể, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những chiến công ấy đã tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của phụ nữ Việt Nam, xứng đáng với tám chữ vàng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”.
Admin
Nguồn: VnExpress