Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Xuân Sênh, người lính đặc công nước năm xưa, chia sẻ: “Tôi đọc để ‘gặp lại’ những đồng đội đã hy sinh, để sống lại những trận đánh ác liệt ở Cửa Việt.”
Tháng 6 năm 1965, chàng thanh niên 24 tuổi Lê Xuân Sênh từ Kinh Môn, Hải Dương (nay là phường Duy Tân, TP Hải Phòng) lên đường nhập ngũ, để lại người vợ trẻ chăm sóc hai con nhỏ và mẹ già yếu.
Ban đầu, ông là lính công binh thuộc Quân khu Đông Bắc, đảm nhận nhiệm vụ rà phá bom mìn, bảo vệ các tuyến đường vận tải trên biển đảo Quảng Ninh, Hải Phòng. Năm 1966, sau khi cầu Cầm ở Đông Triều, Quảng Ninh bị bom Mỹ đánh sập, ông Sênh cùng đơn vị tham gia chiến dịch phá thủy lôi, đảm bảo an toàn cho tàu thuyền qua lại. Chiến công đầu tiên này đã mang về cho ông Huân chương Chiến công hạng Ba.
Tháng 8 năm 1967, ông được tuyển chọn vào lực lượng đặc công nước thuộc Phân đội 3, Đại đội 2, Đoàn đặc công nước 126, Bộ Tư lệnh Hải quân – một đơn vị tinh nhuệ của quân đội ta. Ông được huấn luyện bí mật tại cảng Hải Phòng để trở thành người nhái.
Đến năm 1969, ông Sênh là một trong mười người xuất sắc nhất được điều động vào chiến trường Quảng Trị, trực tiếp chiến đấu tại cảng Cửa Việt.
Cửa Việt thời điểm đó là một “tọa độ lửa”, một vị trí chiến lược then chốt của địch. Đây là cảng quân sự quan trọng, nơi quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp nhận vũ khí, đạn dược và lương thực để chi viện cho mặt trận Quảng Trị và đường 9. Phía bắc cảng là hàng rào điện tử McNamara kiên cố, trên bờ là hệ thống đồn bốt và xe tăng dày đặc. Dưới nước, tàu chiến tuần tiễu ngày đêm, liên tục thả lựu đạn và rà mìn.
Nhiệm vụ của ông Sênh và đồng đội là vượt qua tuyến phòng thủ gần như bất khả xâm phạm này để đánh chìm các tàu vận tải của địch.
Trận đánh đầu tiên của người nhái Lê Xuân Sênh diễn ra ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Đơn vị đã phát động phong trào thi đua “biến đau thương thành hành động”. Mục tiêu là một tàu vận tải 5.000 tấn chở đầy vũ khí đang neo đậu trong cảng, theo nguồn tin tình báo.
Tổ chiến đấu của ông Sênh gồm 7 người, trong đó có 6 cán bộ và chỉ có ông là chiến sĩ, bí mật hành quân 20 km đường rừng để tiếp cận cửa biển. Mỗi người mang theo một con dao găm và lựu đạn. Ông Sênh được giao nhiệm vụ mang hai quả mìn hẹn giờ, mỗi quả nặng 7 kg, để phá tàu.
Ông Sênh kể lại: “Địch không cho chúng tôi dễ dàng tiếp cận. Máy bay quần thảo liên tục, dưới đất là bãi mìn, các đội phục kích và cả ‘cây nhiệt đới’ – thiết bị báo động khi có tiếng động.”

Địa hình dọc sông Bến Hải toàn cát trắng, không có chỗ ẩn nấp, là một thách thức lớn đối với đặc công nước. Khi tiếp cận gần mục tiêu, kế hoạch bất ngờ thay đổi do tàu địch di chuyển. Thời gian không còn nhiều, cấp trên ra lệnh rút lui để bảo toàn lực lượng. Ngay lập tức, chiến sĩ trẻ Lê Xuân Sênh đề xuất với Phân đội phó Lê Văn Tập: “Khó khăn lắm mới vào được đây, giờ rút thì phí quá. Ta cứ đánh, nếu không kịp, các anh cứ rút trước, tôi sẽ bơi dọc bờ về sau.”
Sự táo bạo của người lính trẻ đã thuyết phục được chỉ huy. Hai người ở lại. Ông Sênh và ông Tập buộc dây vào nhau để liên lạc dưới nước, rồi từ từ bơi chìm, chỉ thở bằng ống sậy.
Khu vực cảng sáng như ban ngày vì đèn pha. Tàu tuần tiễu chạy vòng quanh, thỉnh thoảng lại ném lựu đạn để dò tìm. Cách mục tiêu hơn 200 m, ông Sênh xin đi trước.
“Bất ngờ trời tối sầm, tôi nhận ra địch vừa ném lựu đạn ngay bên cạnh. Sức ép khiến hai tai tôi ù đặc, sặc cả nước biển,” ông nhớ lại. Nhưng một may mắn hy hữu đã xảy ra. Vụ nổ đã vô tình đẩy hai người vào vùng khuất của con tàu 5.000 tấn, nơi ánh đèn không chiếu tới.
Tiếp cận được mục tiêu, ông Sênh giật dây ra hiệu cho đồng đội ở lại cảnh giới, còn mình tìm đến khoang máy. Ông dùng dao găm cạo lớp hà bám trên vỏ tàu để mìn dính chặt hơn, rồi bình tĩnh rút ba chốt an toàn (một chốt chống tháo, hai chốt hẹn giờ).
Hoàn thành nhiệm vụ, hai người quay ra thì gặp dòng nước ngược. Ông Tập dần đuối sức, vừa ngoi lên thở thì bị địch phát hiện. Đạn bắn xối xả, lựu đạn nổ rát tai. Hai người phải lặn sâu, nương theo các mạn thuyền khác để thoát thân. Gần một tiếng sau, họ về đến điểm tập kết an toàn.
Khi cả đội vừa rút ra xa chừng 2 km, hai tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả một vùng, nhấn chìm con tàu 5.000 tấn. Trận đánh đã làm tê liệt cảng Cửa Việt trong 7 ngày, chặn đứng một nguồn cung vũ khí lớn của địch.
Một tháng sau trận đánh táo bạo đó, chiến sĩ Lê Xuân Sênh được đề bạt thẳng lên làm chỉ huy phân đội người nhái. Với kinh nghiệm thực chiến và khả năng phán đoán chính xác, ông được đồng đội tin tưởng gọi với biệt danh “Mũi nhọn thọc sâu, đánh đâu thắng đó”.

Từ năm 1969 đến 1972, phân đội do ông Sênh chỉ huy đã trực tiếp đánh chìm thêm 17 tàu địch, riêng ông một mình đánh chìm hai tàu chiến hạng nặng, với đủ loại trọng tải từ vài trăm tấn đến 15.000 tấn. Dù là chỉ huy, ông vẫn luôn có mặt trong mọi chuyến trinh sát thực địa, tìm ra những luồng lạch an toàn, nghiên cứu quy luật hoạt động của địch để giảm thiểu thương vong cho đồng đội.

Với những chiến công đặc biệt xuất sắc, năm 1972, phân đội trưởng Lê Xuân Sênh được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khi mới 31 tuổi. Sự nghiệp binh nghiệp của ông được đánh dấu bằng 5 Huân chương Chiến công hạng Ba, hai Huân chương Chiến công hạng Nhì, 6 lần đạt danh hiệu Dũng sĩ đánh tàu. Năm 1970 và 1971, ông là Chiến sĩ Quyết thắng.
Người lính già chia sẻ: “Những người nhái luôn xác định bản thân là ‘cảm tử quân’. Ai cũng thủ sẵn một quả lựu đạn bên người. Nếu bị phát hiện, thà hy sinh chứ không để bị bắt và lộ bí mật quân sự.”
Khi được hỏi về kỷ niệm đáng nhớ nhất trong những năm tháng chiến tranh, ông Sênh chỉ vào bức ảnh mặc bộ quân áo hải quân, chụp vội trong lần ghé thăm nhà trước khi vào chiến trường.
“Tôi đưa tấm ảnh cho vợ và dặn, nếu tôi sống trở về thì đó là ảnh kỷ niệm, còn nếu hy sinh thì làm ảnh thờ,” ông kể.
Những chiến công của ông Sênh và đồng đội đã góp phần làm nên lịch sử anh hùng của Lữ đoàn 126. Từ năm 1966 đến 1973, tại mặt trận Cửa Việt – Đông Hà, đặc công Hải quân đã đánh gần 300 trận, đánh chìm và làm hỏng hơn 300 tàu thuyền các loại, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng Quảng Trị và thống nhất đất nước.
Trong những năm tháng ông Sênh biền biệt nơi chiến trường, vợ ông, bà Nguyễn Thị Bác, 84 tuổi, là hậu phương vững chắc nơi quê nhà. Một mình gánh vác việc gia đình, nuôi dạy hai con và phụng dưỡng mẹ chồng, bà chưa một lời than vãn.
Bà Bác tâm sự: “Tôi không biết chồng làm nhiệm vụ cụ thể gì, chỉ tâm niệm một điều: Chồng đi chiến đấu để giành lại độc lập thì mình ở nhà phải chu toàn mọi việc để anh yên tâm, chỉ mong gia đình sớm đoàn tụ trong hòa bình.”

Hòa bình lập lại, trung tá Lê Xuân Sênh được cử đi học, sau đó giữ các chức vụ trợ lý Phòng Cán bộ Hải Quân, Phó Trưởng phòng Doanh trại, Cục Hậu cần, Quân chủng Hải quân. Từ tháng 5 năm 1991, ông nghỉ hưu, trở về với cuộc sống bình dị, làm ruộng, đánh cá, cùng vợ bù đắp những năm tháng xa cách.
Khi được hỏi có bao giờ sợ hãi không, người anh hùng Cửa Việt khẳng định rằng ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh, nhưng không ai trong số những người lính của Lữ đoàn 126 nghĩ đến việc sợ hãi.
Ông khẳng định: “Chúng tôi không được phép lùi bước vì phía sau là quê hương, là gia đình. Con đường duy nhất là chiến thắng để giành lại hòa bình, độc lập.”
Admin
Nguồn: VnExpress