Thơ về Tre Việt Nam: Tôn vinh phẩm chất người Việt

Trong đêm 20/9 tại Moskva, Nga, ca sĩ Đức Phúc đã xuất sắc vượt qua 22 đối thủ, giành ngôi vô địch Intervision với ca khúc “Phù Đổng Thiên Vương” do nhạc sĩ Hồ Hoài Anh sáng tác. Màn trình diễn của anh đã gây ấn tượng mạnh mẽ với khán giả quốc tế, không chỉ bởi giọng hát mà còn bởi những giai điệu và hình ảnh đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam.

Nhà thơ Nguyễn Duy tại một tọa đàm kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước hồi tháng 4 ở Hà Nội. Ảnh: Fanpage Khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Nhà thơ Nguyễn Duy kỷ niệm 50 năm thống nhất (Hà Nội): Ảnh. Ảnh: Internet

Mở đầu phần thi, Đức Phúc cất lên bốn câu thơ trích từ bài “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy:

“Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành, tre ơi?”

Nhạc sĩ Hồ Hoài Anh chia sẻ rằng, mỗi khi nghĩ về hình ảnh cây tre, những vần thơ của Nguyễn Duy lại hiện lên trong tâm trí anh. “Bài thơ đã ăn sâu vào tiềm thức của tôi, và đó cũng là nguồn cảm hứng để tôi sáng tác ‘Phù Đổng Thiên Vương’,” anh nói. Nhạc sĩ mong muốn thông qua hình ảnh cây tre để thể hiện sức sống mãnh liệt, sự mềm mại nhưng cũng đầy mạnh mẽ của thế hệ trẻ Việt Nam.

Những câu thơ này đã khơi gợi ký ức của rất nhiều người. Từng được in trong sách giáo khoa tiếng Việt ở cấp tiểu học, “Tre Việt Nam” được đông đảo độc giả yêu mến bởi ngôn từ giản dị, giàu cảm xúc. Trên một trang cộng đồng, nhiều độc giả bày tỏ sự xúc động khi nhắc lại bài thơ. Chị Hà Thị Hương, 46 tuổi, cho biết chị vẫn nhớ như in từng câu chữ, còn tài khoản Hà Lê, 55 tuổi, bồi hồi nhớ lại: “Thời đi học là học thuộc lòng và lên bảng đọc cho cả lớp nghe.”

Bài thơ “Tre Việt Nam” khắc họa hình ảnh cây tre với thân nhỏ, mọc thẳng, lá mỏng manh, nhưng lại có thể “nên lũy nên thành”, tồn tại ở mọi địa hình, dù là “đất sỏi đất vôi bạc màu”. Qua đó, tác giả liên tưởng đến những phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam. Những câu thơ như “Rễ siêng không ngại đất nghèo/ Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù/ Vươn mình trong gió tre đu/ Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành” khắc họa tính cách chăm chỉ, không ngại gian khổ để sinh tồn và phát triển. Đặc tính sống thành cụm của tre, “Bão bùng thân bọc lấy thân/ Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm”, tượng trưng cho tinh thần đoàn kết, đùm bọc của người Việt Nam trong những lúc khó khăn.

“Tre Việt Nam” ra đời năm 1969, khi nhà thơ Nguyễn Duy là lính binh nhì của bộ đội thông tin. Ba năm sau khi nhập ngũ, nỗi nhớ về lũy tre, bến nước ở làng Vũ (Đò Lèn, Hà Trung, Thanh Hóa) luôn thường trực trong lòng ông. Ngồi trong một căn hầm ẩn dưới khóm tre già, rễ tre đâm vào đầu khi tựa vào vách hầm, ông đã viết nên những câu thơ đầu tiên. “Tôi nghĩ gì viết nấy, không có chút kỹ thuật nào nhưng rồi lại được nhiều độc giả thuộc và nhớ,” nhà thơ hồi tưởng.

Khi những câu thơ đầu tiên được đưa vào tiết mục của Đức Phúc, nhà thơ Nguyễn Duy xúc động “trào nước mắt”. Dù sức khỏe yếu, ông vẫn cố gắng theo dõi thông tin và dành lời khen cho ca sĩ và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh. “Tôi cho rằng nghệ thuật giờ đây cần kết hợp giữa cái cũ và cái mới, vừa mang nét dân tộc nhưng vẫn có tính hội nhập,” ông bày tỏ.

Những khóm tre xanh vốn quen thuộc ở làng quê Việt Nam. Ảnh: Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
Tre xanh làng quê Việt Nam: Ảnh từ ĐH Sư Phạm Hà Nội. Ảnh: Internet

Theo nhà thơ trẻ Nguyên Như, giá trị tư tưởng của bài thơ “Tre Việt Nam” đã đạt đến đỉnh cao. Nguyễn Duy đã thổi hồn vào hình tượng cây tre, biến nó thành biểu tượng của con người Việt Nam. Những vần thơ khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước trong mỗi người. Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Duy không chỉ sử dụng những đặc điểm quen thuộc của thể thơ lục bát mà còn sáng tạo trong cách dùng từ, ngắt nhịp, gieo vần, tạo nên những câu thơ độc đáo như “Tre xanh/ Xanh tự bao giờ” hay “Mai sau/ mai sau/ mai sau/ Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh”.

Nguyên Như nhận định: “Giá trị nghệ thuật cao nhất của thi ca là sự bình dị nhưng đẹp đẽ, có sự hòa quyện giữa ngôn từ và cảm xúc, tư tưởng và nhịp điệu của con chữ. Bài thơ đã truyền cảm hứng sáng tạo cho nhiều thế hệ nghệ sĩ ở Việt Nam.”

Tiết mục
Đức Phúc hát “Phù Đổng Thiên Vương” (Chung kết): Video Intervision. Ảnh: Internet

Nhà thơ Nguyễn Duy, tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, nhập ngũ năm 1966. Ông từng tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào, mặt trận phía Nam và mặt trận phía Bắc (1979). Sau khi giải ngũ, ông làm việc tại tuần báo Văn nghệ, Hội nhà văn Việt Nam. Ông bắt đầu làm thơ từ sớm, với tác phẩm đầu tay là bài “Trên sân trường” ra đời từ đầu những năm 1960. Tuy nhiên, đến năm 1973, ông mới thực sự nổi tiếng với chùm sáng tác đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ, gồm “Hơi ấm ổ rơm”, “Bầu trời vuông”, và “Tre Việt”.

Intervision Song Contest, tiền thân là cuộc thi do Tổ chức Phát thanh – Truyền hình Quốc tế (OIRT) khởi xướng. Trong những năm đầu (1965-1968), cuộc thi được tổ chức tại các thành phố của Tiệp Khắc như Praha, Bratislava và Karlovy Vary. Từ năm 1977 đến 1980, Intervision được tổ chức trở lại tại Sopot, Ba Lan, thay thế cho Sopot International Song Festival. Sau năm 1980, cuộc thi tạm ngừng tổ chức. Sự trở lại sau hơn 40 năm đã thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm Cuba, Kyrgyzstan, Trung Quốc, Ai Cập, Mỹ, Kenya, Kazakhstan, UAE, Nga, Brazil, Tajikistan, Qatar, Madagascar, Saudi Arabia, Colombia, Ethiopia, Venezuela, Serbia, Nam Phi, Belarus, Uzbekistan và Việt Nam.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *