Theo số liệu thống kê từ Ookla công bố vào tháng 8, Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc về tốc độ Internet di động, đạt tốc độ tải xuống trung bình 152,17 Mbps, tăng gần gấp ba lần so với cùng kỳ năm trước. Nhờ đó, thứ hạng của Việt Nam trên toàn cầu đã tăng 10 bậc, từ vị trí 26 lên vị trí 16. Đáng chú ý, hai nhà mạng Việt Nam là Viettel và VNPT đều góp mặt trong top các nhà mạng có tốc độ Internet di động hàng đầu thế giới. Trong đó, Viettel nằm trong top 3 nhà mạng có tốc độ Internet di động nhanh nhất, còn VNPT đứng thứ hai về tốc độ tải xuống 5G.
Những kết quả ấn tượng này đạt được chỉ sau chưa đầy một năm Việt Nam triển khai thương mại hóa mạng 5G và hơn một năm kể từ khi các nhà mạng được cấp phép sử dụng tần số 5G. Hiệp hội Di động toàn cầu GSMA đánh giá đây là động lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng của lĩnh vực di động tại Việt Nam.
Trong một bài phỏng vấn được GSMA Spectrum đăng tải ngày 2/10, Cục trưởng Cục Tần số Vô tuyến điện Lê Văn Tuấn đã chia sẻ về cách thức triển khai tần số cho 5G tại Việt Nam, một trong những yếu tố then chốt đóng góp vào sự phát triển của mạng 5G tại Việt Nam.
Ông Tuấn cho biết, để đạt được mạng 5G tốc độ cao và phủ sóng rộng khắp, cơ quan quản lý đã quyết định cấp phép cho các nhà khai thác quyền sử dụng cả băng tần trung bình (2,3 GHz, 2,6 GHz và 3,8 GHz) và băng tần thấp 700 MHz.
Để chuẩn bị cho việc triển khai 5G, Việt Nam đã thực hiện quy hoạch tần số từ nhiều năm trước, bao gồm việc sắp xếp lại các hệ thống thông tin vô tuyến, di dời các trạm vệ tinh VSAT và TVRO từ băng tần trung bình sang băng tần cao hơn, và ngừng phát sóng truyền hình tương tự (analog) để giải phóng băng tần thấp.
Đối với băng tần trung bình, Việt Nam đã lựa chọn một cách tiếp cận khác biệt là cung cấp kích thước khối lớn hơn. Ví dụ, Viettel, nhà mạng đầu tiên trúng đấu giá băng tần 5G, đã sở hữu khối B1 (2.500-2.600 MHz) với độ rộng khối lên tới 100 MHz, lớn hơn nhiều so với mức 2×20 MHz thường thấy ở các quốc gia khác.

Trong khi đó, băng tần 700 MHz, với khả năng truyền xa và xuyên vật cản tốt, được sử dụng để phủ sóng 5G diện rộng và trong các khu đô thị, có kích thước khối 2×10 MHz. Ông Tuấn nhấn mạnh rằng cách tiếp cận này đảm bảo các nhà khai thác trúng đấu giá có thể triển khai mạng 5G ở quy mô lớn và chất lượng cao.
Về chi phí tần số, khối B1 có giá khởi điểm cao nhất, khoảng 3,9 nghìn tỷ đồng, trong khi các khối C2 (3.700-3.800 MHz), C3 (3.800-3.900 MHz) và khối băng tần thấp có giá khởi điểm khoảng 1,9 nghìn tỷ đồng.
Ông Tuấn giải thích rằng các mức giá này được tính toán kỹ lưỡng dựa trên nhiều yếu tố, trong đó có doanh thu của nhà khai thác. Theo các nghiên cứu quốc tế, nếu chi phí tần số duy trì dưới 5% doanh thu hàng năm, các nhà khai thác sẽ tiếp tục đầu tư mạnh, từ đó cải thiện chất lượng dịch vụ. Ngược lại, nếu tỷ lệ này vượt quá 10%, đầu tư vào mạng lưới sẽ giảm, kéo theo sự suy giảm chất lượng dịch vụ.
Việt Nam đã lựa chọn mức giá khởi điểm “vừa phải”, và sau các cuộc đấu giá, chi phí tần số đối với các nhà khai thác Việt Nam hiện chiếm khoảng 6% hoặc thấp hơn so với doanh thu hàng năm.

Các doanh nghiệp trúng đấu giá tần số 5G phải triển khai dịch vụ trong vòng 12 tháng kể từ ngày được cấp phép và phải có tối thiểu 3.000 trạm phát sóng 5G sau hai năm. Ngoài ra, việc chuyển nhượng phổ tần bị hạn chế trong 5 năm đầu sau đấu giá để ngăn chặn tình trạng đầu cơ và đảm bảo các nhà khai thác thực sự đầu tư vào triển khai mạng lưới.
Một yếu tố quan trọng khác được ông Lê Văn Tuấn đề cập là chính sách khuyến khích tài chính để thúc đẩy các nhà mạng triển khai nhanh chóng. Nghị quyết 193 của Quốc hội cho phép “thưởng” cho các nhà mạng triển khai thêm 20.000 trạm, tính đến cuối năm 2025, bằng cách hỗ trợ 15% chi phí mua thiết bị.

Viettel đã cam kết đạt được con số này khi dự kiến triển khai thêm 22.000 trạm 5G trong năm nay, nâng tổng số trạm 5G của họ lên 29.000, phủ sóng 90% dân số. Con số này gấp đôi tổng số 11.000 trạm 5G của tất cả các nhà mạng đang hoạt động tại Việt Nam tính đến tháng 6/2025. Viettel cũng cho biết đã có 10 triệu thuê bao 5G sau gần một năm thương mại hóa.
Ông Tuấn khẳng định: “Mặc dù việc thương mại hóa 5G của Việt Nam diễn ra tương đối muộn so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, nhưng nhờ các biện pháp trên, chúng tôi đã đạt được tiến bộ đáng kể chỉ sau một năm triển khai.” Những kết quả này cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng trong việc phát triển hạ tầng 5G, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế – xã hội trong tương lai.
Admin
Nguồn: VnExpress