Viêm gan B là một bệnh nhiễm trùng do virus HBV gây ra, ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, kể cả trẻ sơ sinh. Bệnh tiến triển một cách âm thầm, gây tổn thương gan kéo dài và có thể dẫn đến xơ gan hoặc ung thư biểu mô tế bào gan nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Theo BS.CKI Nguyễn Thanh Huyền Vân, Trung tâm Nội soi và Phẫu thuật Nội soi Tiêu hóa, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM, phương pháp điều trị viêm gan B phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, mức độ hoạt động của virus và mức độ tổn thương gan. Mục tiêu chính là ức chế sự nhân lên của virus, hạn chế tiến triển xơ gan và giảm nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào gan.
Đối với bệnh nhân viêm gan B cấp tính, bệnh có thể tự khỏi mà không cần dùng thuốc kháng virus. Trong trường hợp này, điều trị chủ yếu tập trung vào việc hỗ trợ, bao gồm nghỉ ngơi đầy đủ, chế độ dinh dưỡng hợp lý và theo dõi chặt chẽ chức năng gan. Tuy nhiên, những trường hợp viêm gan B cấp tính có biểu hiện nặng (men gan tăng cao, vàng da sậm, rối loạn đông máu, dấu hiệu suy gan) cần được nhập viện để điều trị tích cực và xem xét sử dụng thuốc kháng virus.
Trong trường hợp viêm gan B mạn tính, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng thuốc kháng virus khi virus hoạt động mạnh và gây tổn thương gan tiến triển. Bác sĩ sẽ lựa chọn thuốc dựa trên ba yếu tố chính: nồng độ ALT, tải lượng virus viêm gan B trong máu và mức độ xơ hóa gan. Đối với phụ nữ mang thai mắc viêm gan B, bác sĩ sẽ đánh giá nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con để có biện pháp can thiệp phù hợp. Ở trẻ em, phác đồ điều trị cần được cá nhân hóa dựa trên giai đoạn nhiễm HBV.
Những người đã tiếp xúc trực tiếp với dịch thể hoặc máu của người bệnh viêm gan B cần được điều trị dự phòng. Nếu người bị phơi nhiễm chưa được tiêm vaccine phòng bệnh, cần tiêm globulin miễn dịch kháng viêm gan B (HBIG) càng sớm càng tốt.
Bên cạnh đó, bác sĩ khuyến cáo rằng trong và sau quá trình điều trị viêm gan B, người bệnh nên tăng cường ăn trái cây và rau xanh để bổ sung chất xơ, giúp giảm lượng axit béo trong gan. Thịt nạc, sữa và các loại hạt cũng rất quan trọng để tăng cường protein, duy trì khối lượng cơ bắp. Tuy nhiên, lượng protein cần thiết nên được giới hạn trong khoảng 1-1,5g protein cho mỗi kg trọng lượng cơ thể. Đồng thời, người bệnh cần theo dõi định kỳ men gan, tải lượng virus, siêu âm và AFP để phát hiện sớm các biến chứng có thể xảy ra.
Điều quan trọng là bệnh nhân cần tuân thủ tuyệt đối theo phác đồ điều trị, không tự ý ngưng thuốc và tái khám định kỳ mỗi 3-6 tháng để đánh giá hiệu quả điều trị và điều chỉnh phác đồ khi cần thiết, nhằm kiểm soát bệnh một cách hiệu quả nhất.
Admin
Nguồn: VnExpress
