Việt Nam: Mô hình tăng trưởng kinh tế mới được xác lập

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng XIV, vừa được Ban Chấp hành Trung ương công bố để lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong cách tiếp cận chiến lược phát triển đất nước. Điểm nổi bật là Báo cáo Chính trị được xây dựng theo hướng tích hợp, bao gồm nội dung của cả Báo cáo Kinh tế – Xã hội và Báo cáo tổng kết công tác Xây dựng Đảng.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Đại hội Đảng, toàn bộ định hướng phát triển quốc gia, từ đường lối chính trị, chiến lược kinh tế – xã hội đến công tác xây dựng Đảng, được trình bày trong một văn kiện thống nhất. Sự hợp nhất này thể hiện mục tiêu liên kết chặt chẽ giữa ba yếu tố then chốt: thể chế, kinh tế và con người, đồng thời khắc phục tình trạng phân tách giữa định hướng chính trị, kế hoạch phát triển và tổ chức thực thi trong hệ thống quản lý.

Dự thảo báo cáo nhìn lại chặng đường 40 năm đổi mới, khẳng định Việt Nam đã đạt được những thành tựu “rất quan trọng, toàn diện, đột phá, với nhiều điểm sáng nổi bật”. Trong giai đoạn 2021-2025, tăng trưởng GDP bình quân đạt 6,3% mỗi năm, quy mô kinh tế vượt 510 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình cao. Cơ sở hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ, đời sống nhân dân, quốc phòng và đối ngoại đều có những bước tiến đáng kể.

Tuy nhiên, dự thảo cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, như thể chế còn chồng chéo, tăng trưởng chưa đạt tiềm năng, năng lực công nghệ còn thấp, khoa học – đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực chính, và tình trạng phân hóa xã hội còn gia tăng.

Từ những đánh giá đó, văn kiện xác định giai đoạn 2026-2030 là thời điểm then chốt để Việt Nam chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng mới, tập trung vào thể chế linh hoạt, kinh tế xanh và con người sáng tạo – những nền tảng vững chắc cho một xã hội phát triển tự cường.

Việc hợp nhất Báo cáo Chính trị, Báo cáo Kinh tế – Xã hội và Báo cáo Xây dựng Đảng vào một văn kiện duy nhất thể hiện sự đổi mới trong tư duy điều hành chiến lược. Thay vì xem xét riêng rẽ, ba lĩnh vực này được nhìn nhận như một chỉnh thể thống nhất, trong đó đường lối chính trị đóng vai trò định hướng, kinh tế là động lực phát triển, và con người là trung tâm, là mục tiêu cuối cùng.

Văn kiện cũng xác định rõ ba giai đoạn phát triển cụ thể: đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao; và tầm nhìn đến năm 2050 là xây dựng một xã hội thịnh vượng, văn minh và hạnh phúc. Những mục tiêu này thể hiện tầm nhìn xa với kỳ vọng tăng trưởng GDP bình quân đạt 10% mỗi năm trong giai đoạn 2026-2030, năng suất lao động tăng 8,5%, đóng góp của năng suất tổng hợp (TFP) đạt trên 55%, tỷ trọng kinh tế số chiếm 30% GDP, tỷ lệ đô thị hóa vượt 50%, và giảm phát thải khí nhà kính từ 8-9%.

Ba đột phá chiến lược được tái cấu trúc theo hướng toàn diện hơn. Đầu tiên là hoàn thiện thể chế, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đồng thời, Việt Nam tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn liền với khoa học và công nghệ, coi đây là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đột phá thứ ba là đầu tư đồng bộ vào hệ thống hạ tầng kinh tế – xã hội, ưu tiên hạ tầng số, năng lượng, giao thông chiến lược và phát triển các đô thị xanh.

Dự thảo cũng đề xuất sửa đổi toàn diện Hiến pháp năm 2013, nhằm hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh phân cấp và phân quyền, xây dựng cơ chế vận hành linh hoạt và hiệu quả hơn. Mục tiêu là tạo ra một môi trường thể chế thông thoáng, khơi thông mọi tiềm năng phát triển của đất nước.

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại hội nghị Trung ương 13, khóa 13. Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị Trung ương 13. Ảnh: Internet

Những định hướng này phản ánh tư duy lãnh đạo mới, trong đó thể chế là nền tảng, khoa học – công nghệ là động lực, con người là trung tâm, và văn hóa là gốc rễ của sự phát triển.

Lần đầu tiên, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được đặt ở vị trí trung tâm của mô hình tăng trưởng. Văn kiện nhấn mạnh rằng “phát triển khoa học – công nghệ là nhiệm vụ đột phá, là điều kiện tiên quyết để Việt Nam chuyển sang nền kinh tế tri thức”.

Dự thảo yêu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách vượt trội cho hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, đảm bảo tính tự chủ và khả năng cạnh tranh quốc tế. Các lĩnh vực được ưu tiên bao gồm trí tuệ nhân tạo, công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học, vật liệu mới, năng lượng sạch, công nghệ lượng tử, không gian vũ trụ và năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Việt Nam sẽ xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia, phát triển công nghiệp chip, hình thành mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu, và khuyến khích các chuyên gia Việt kiều và doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào công nghệ mới.

Song song với đó là quá trình chuyển đổi toàn diện sang kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Mục tiêu đến năm 2030, các ngành kinh tế này sẽ đóng góp 30% GDP. Đặc biệt, văn kiện lần đầu tiên nhấn mạnh khái niệm “chủ quyền công nghệ”, thể hiện khát vọng tự chủ trong các lĩnh vực chiến lược và coi việc nắm giữ công nghệ cốt lõi là một phần quan trọng của sức mạnh quốc gia.

Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học, công nghệ và kinh tế mở ra một cách tiếp cận mới: không chỉ ứng dụng mà còn kiến tạo. Nếu trước đây công nghệ chỉ được xem là công cụ hỗ trợ sản xuất, thì nay nó được nhìn nhận là nền tảng để hình thành một mô hình tăng trưởng mới, nơi tri thức và đổi mới sáng tạo là yếu tố tạo ra giá trị gia tăng cao nhất.

Trong cấu trúc tổng thể của văn kiện, con người được đặt ở vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách. Việt Nam lần đầu tiên xác định “bốn hệ giá trị” – quốc gia, văn hóa, gia đình và con người – như nền tảng tinh thần cho giai đoạn phát triển mới, coi hạnh phúc và sự hài lòng của người dân là thước đo thành công của Nhà nước.

Giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu, có vai trò quyết định tương lai của dân tộc. Văn kiện đặt mục tiêu xây dựng một nền giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và hội nhập quốc tế; thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về hiện đại hóa giáo dục; phát triển giáo dục công lập làm trụ cột, đồng thời coi giáo dục ngoài công lập là một bộ phận quan trọng.

Học sinh trường tiểu học Bùi Văn Mới, phường Phước Long, tháng 9/2025. Ảnh: Quỳnh Trần
Học sinh tiểu học Bùi Văn Mới, Phước Long năm 2025. Ảnh: Internet

Việt Nam sẽ đưa năng lực số (AI) vào chương trình giáo dục phổ thông, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, xây dựng một số trường đại học định hướng nghiên cứu thành các trung tâm khoa học và đổi mới sáng tạo ngang tầm khu vực. Chính sách ưu đãi đặc thù sẽ được áp dụng cho đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học và cán bộ quản lý giáo dục.

Song song với giáo dục là chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, thu hút nhân tài và chuyên gia trong và ngoài nước, xây dựng một xã hội học tập suốt đời, coi tri thức là vốn xã hội quý giá nhất.

Trong lĩnh vực y tế, văn kiện hướng tới xây dựng một hệ thống y tế công bằng, hiệu quả và bền vững, đảm bảo mọi người dân được khám sức khỏe định kỳ, tiến tới miễn phí các dịch vụ y tế cơ bản và bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân. Chính sách an sinh xã hội đa tầng được triển khai, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau. Mục tiêu đến năm 2030 là cơ bản không còn hộ nghèo, tuổi thọ trung bình đạt 75,5 tuổi, trong đó có 68 năm sống khỏe mạnh.

Văn hóa và xã hội được khẳng định là nền tảng tinh thần của sự phát triển. Lần đầu tiên, Báo cáo Chính trị đưa khái niệm “hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam” vào văn kiện Đại hội, thể hiện một bước tiến quan trọng trong nhận thức: phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà còn là nâng cao giá trị con người. Văn hóa không còn là yếu tố thứ yếu, mà là nguồn lực nội sinh của sự phát triển. Việt Nam sẽ phát triển công nghiệp văn hóa, bảo tồn di sản, khuyến khích sáng tạo nghệ thuật, thúc đẩy bình đẳng giới, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và sự đa dạng văn hóa.

Ở tầm cao hơn, văn kiện nhấn mạnh việc củng cố quốc phòng – an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại toàn diện, trên tinh thần độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác. Công nghiệp quốc phòng được phát triển theo hướng lưỡng dụng và hiện đại, lực lượng vũ trang được xây dựng tinh nhuệ, chính quy và gắn bó mật thiết với nhân dân. Việt Nam tiếp tục giữ vai trò chủ động trong các cơ chế khu vực, tăng cường ngoại giao công nghệ, ngoại giao môi trường và ngoại giao nhân dân.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước xem màn trình diễn của robot hình người tại triển lãm hồi tháng 8. Ảnh: Giang Huy
Lãnh đạo Việt Nam xem robot hình người trình diễn tại triển lãm. Ảnh: Internet

Công tác xây dựng Đảng được coi là nhiệm vụ then chốt. Đội ngũ cán bộ được bố trí theo nguyên tắc “có vào có ra, có lên có xuống”, bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng thời hoàn thiện cơ chế để ngăn chặn tình trạng tham nhũng, tiêu cực. Đây là nền tảng chính trị vững chắc cho mọi đột phá phát triển.

Sự hợp nhất ba văn kiện, tái cấu trúc ba đột phá chiến lược, đặt khoa học – công nghệ ở vị trí trung tâm và con người ở vị trí hạt nhân đã định hình một tầm nhìn dài hạn cho Việt Nam: một quốc gia hiện đại, sáng tạo, nhân văn, tự cường và hạnh phúc.

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *