Theo kịch bản biến đổi khí hậu quốc gia năm 2020, TP HCM và Đồng bằng sông Cửu Long, những khu vực có địa hình thấp nhất cả nước, đang phải đối mặt với tình trạng sụt lún đất nghiêm trọng.
Đáng chú ý, TP HCM nằm trong nhóm các tỉnh thành có tốc độ sụt lún đáng báo động, vượt quá 10 cm mỗi thập kỷ. Thống kê từ năm 2005 đến 2017 cho thấy, tổng mức sụt lún tại TP HCM lên tới 23,27 cm, trung bình mỗi năm gần 2 cm, cao nhất trong khu vực. Các chuyên gia chỉ ra hai nhóm nguyên nhân chính gây ra hiện tượng này: yếu tố tự nhiên và tác động từ hoạt động của con người.
Về yếu tố tự nhiên, TP HCM được hình thành trên nền đất yếu của vùng châu thổ trẻ, nơi trầm tích bùn, sét và than bùn tích tụ hàng nghìn năm. Đặc tính nén lún tự nhiên của loại đất này khiến khu vực dễ bị biến dạng, đặc biệt tại các khu vực như quận 7, 8, Nhà Bè và Bình Chánh. Thêm vào đó, sự dao động của mực nước ngầm theo mùa, triều cường và xâm nhập mặn cũng góp phần làm thay đổi cấu trúc đất, gây ra sụt lún ngay cả khi không có tác động từ con người.
PGS.TS Lê Trung Chơn, Viện trưởng Nghiên cứu Phát triển bền vững (Đại học Tài nguyên và Môi trường), nhấn mạnh rằng nền địa chất yếu, đặc biệt là các lớp trầm tích trẻ Holocene, khiến TP HCM trở nên “nhạy cảm” hơn trước quá trình đô thị hóa và thay đổi mực nước ngầm, từ đó làm trầm trọng thêm tình trạng sụt lún.
PGS.TS Lê Song Giang, Khoa Kỹ thuật Xây dựng (Đại học Bách khoa TP HCM), giải thích rằng việc khai thác nước ngầm quá mức cũng là một nguyên nhân quan trọng. Nền địa chất yếu của thành phố dễ bị ảnh hưởng bởi việc khai thác liên tục các tầng chứa nước trong thời gian dài, làm giảm khả năng nén tự nhiên của đất và tạo ra các khoảng trống dưới lòng đất, dẫn đến sụt lún bề mặt.
Trước năm 2010, nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho TP HCM phụ thuộc lớn vào nước ngầm, chiếm khoảng 50-60%. Trong khi đó, các nhà máy nước mặt như Tân Hiệp, Thủ Đức, Bình An chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của khu vực trung tâm. Tình trạng này dẫn đến việc người dân ở các quận ven và ngoại thành như Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi, Nhà Bè chủ yếu sử dụng giếng khoan riêng, gây ra khai thác tràn lan và sụt lún nghiêm trọng.

Vào năm 2010, TP HCM có hơn 200.000 giếng khoan với tổng công suất vượt quá một triệu m3/ngày đêm, gấp 5 lần so với quy hoạch được phê duyệt. UBND TP HCM thời điểm đó đánh giá rằng việc hạ thấp mực nước ngầm hàng năm là nguyên nhân chính gây ra sụt lún ở nhiều khu vực như quận 6 (5-20 cm), quận Bình Tân (14 cm) và thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh (12 cm).
Để giải quyết tình trạng này, TP HCM đã ban hành quy định về khai thác nước ngầm vào năm 2012, hạn chế việc khoan giếng bừa bãi. Thành phố cũng triển khai lộ trình giảm dần khai thác nước ngầm, đặt mục tiêu đến năm 2025 chỉ còn 100.000 m3 mỗi ngày đêm. Các biện pháp được áp dụng bao gồm hạn chế cấp phép, thu thuế và phí khai thác, tuyên truyền người dân sử dụng nước sạch từ hệ thống cấp nước đô thị, cùng với việc trám lấp các giếng khoan hư hỏng hoặc không còn sử dụng.
Mặc dù các biện pháp kiểm soát đã giúp giảm đáng kể lượng nước ngầm khai thác, ông Giang cho rằng sụt lún là một quá trình tích lũy kéo dài. Do đó, hiện tượng này vẫn tiếp tục diễn ra, dù với tốc độ chậm hơn.
Một yếu tố khác góp phần vào tình trạng sụt lún là quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh. Nhóm nghiên cứu của PGS.TS Lê Trung Chơn chỉ ra rằng, trong giai đoạn 2011-2017, tỷ lệ đô thị hóa ở TP HCM đạt mức bình quân 80-83% mỗi năm. Mặc dù tỷ lệ này đã giảm trong giai đoạn 2018-2022, nhưng vẫn duy trì ở mức cao, 78-80%.
Các chuyên gia cho rằng việc đất tự nhiên bị thay thế bằng nhựa đường, bêtông, thiếu mảng xanh và hồ chứa nước đã làm giảm khả năng thấm nước mưa xuống mạch ngầm, gây ra tình trạng co ngót và mất ổn định của đất. Ngoài ra, giao thông tải trọng lớn và xây dựng các công trình cao tầng cũng tạo thêm áp lực lên nền đất, khiến các khu vực có nền đất yếu như phía nam thành phố càng sụt lún nhanh hơn.

Kết quả đo đạc sụt lún bằng công nghệ radar vệ tinh InSAR trong giai đoạn 2014-2025 cho thấy các khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề tập trung ở những nơi có địa hình thấp và địa chất yếu, bao gồm vùng Nam Sài Gòn, bán đảo Thanh Đa, Hiệp Bình Phước và Thảo Điền.

PGS.TS Nguyễn Hồng Quân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tuần hoàn (Đại học Quốc gia TP HCM), nhấn mạnh rằng TP HCM cần tiên phong đưa ra các giải pháp ứng phó với sụt lún, một vấn đề mang tính đặc thù của từng vùng.

Để ứng phó hiệu quả, thành phố cần xây dựng mạng lưới quan trắc sụt lún với các trạm cố định, cập nhật dữ liệu định kỳ để phục vụ quy hoạch hạ tầng, giao thông và chống ngập. Đồng thời, cần ưu tiên nghiên cứu khoa học cơ bản về địa chất và thủy văn để hiểu rõ hơn về cấu trúc nền đất và cơ chế biến dạng theo thời gian.
Bên cạnh việc thu thập dữ liệu, việc xác định cụ thể các nguyên nhân gây sụt lún là rất quan trọng để đưa ra các giải pháp thích ứng phù hợp. PGS.TS Nguyễn Hồng Quân khuyến nghị cần gia cố nền móng, sử dụng vật liệu nhẹ và đánh giá rủi ro lún trong thiết kế công trình, đặc biệt ở các vùng đất yếu. Đối với những khu vực đã lún sâu, có thể xem xét quy hoạch thích ứng, phát triển các mô hình kinh tế và hạ tầng phù hợp với địa hình thấp.
Ngoài ra, thành phố cần tăng cường mảng xanh và diện tích mặt nước, coi đây là hạ tầng điều tiết chứ không chỉ là cảnh quan. Các công viên chứa nước và hồ điều hòa đa chức năng có thể là những mô hình phù hợp, vừa là nơi vui chơi giải trí trong mùa khô, vừa là nơi chứa nước trong mùa mưa. Ở những vùng trũng, ngập sâu khi mưa lớn hoặc triều cường, cần vận hành hệ thống bơm và thoát nước một cách linh hoạt hơn.
Nhiều thành phố ven biển trên thế giới đã thành công trong việc “sống chung” với tình trạng sụt lún. Ngay cả Venice (Italy), một thành phố nằm dưới mực nước biển, vẫn duy trì cuộc sống và phát triển du lịch. “Sụt lún không phải là án tử cho đô thị mà có thể kiểm soát được nếu chúng ta hiểu rõ nguyên nhân, có dữ liệu chính xác và hành động sớm,” ông Quân kết luận.
Admin
Nguồn: VnExpress

 
                         
                         
                         
                         
                         
                         
			 
			 
			