Can thiệp Venezuela: Mỹ lợi bất cập hại?

Tổng thống Donald Trump ngày 17/11 đã không loại trừ khả năng triển khai quân đội Mỹ đến Venezuela, trong bối cảnh Washington tăng cường sự hiện diện quân sự trong khu vực biển Caribe.

“Tôi không loại trừ bất cứ điều gì,” ông Trump nói với các phóng viên tại Phòng Bầu dục, “Việc chúng ta cần là giải quyết vấn đề Venezuela.”

Tuyên bố này dường như mâu thuẫn với phát biểu trước đó một ngày, khi ông Trump nói rằng chính quyền của ông “có thể đang có một số cuộc thảo luận” với Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro. Ông Trump đã cáo buộc ông Maduro chịu trách nhiệm cho một tổ chức buôn bán ma túy xuyên quốc gia, cũng như tình trạng ma túy và tội phạm bạo lực tràn vào Mỹ. Ông Maduro đã bác bỏ những cáo buộc này.

Trước đó, vào tháng 8, Tổng thống Trump từng tuyên bố Mỹ đang cân nhắc sử dụng lực lượng quân sự để giải quyết cuộc khủng hoảng ở Venezuela. Thông báo này đã bị các đồng minh ở Mỹ Latinh và Caribe lên án, cho rằng đây là một hành động liều lĩnh và phản tác dụng.

Theo Frank O. Mora, giám đốc Trung tâm Caribe và Mỹ Latinh Kimberly Green tại Đại học Quốc tế Florida, kể từ sau chiến dịch tấn công Panama năm 1989, chưa có tổng thống Mỹ nào đe dọa sử dụng vũ lực ở châu Mỹ. Ông Mora giải thích rằng hiện nay, Lầu Năm Góc tập trung vào việc hỗ trợ các nước Mỹ Latinh phá vỡ các mạng lưới buôn bán ma túy, đối phó với quân nổi dậy và ứng phó với thiên tai, thay vì lên kế hoạch can thiệp quân sự trực tiếp.

Ông Mora phân tích rằng Mỹ có ba lựa chọn để sử dụng vũ lực đối với Venezuela: gây sức ép, tiến hành các cuộc tấn công hạn chế với độ chính xác cao, hoặc triển khai một chiến dịch tấn công bằng bộ binh để kiểm soát lãnh thổ.

Tổng thống Donald Trump tại cuộc họp nội các ở Nhà Trắng ngày 8/7. Ảnh: AP
Tổng thống Trump họp nội các tại Nhà Trắng (Ảnh AP). Ảnh: Internet

Gây sức ép là biện pháp phô trương sức mạnh để buộc một quốc gia thay đổi hành vi. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ hiệu quả khi sự phô trương đó đáng tin cậy và có thể thuyết phục Venezuela rằng họ sẽ bị trừng phạt nếu không thay đổi hành vi.

Trong hai tháng qua, Mỹ đã triển khai 12 tàu chiến cùng khoảng 15.000 quân nhân đến khu vực Caribe, bao gồm cả nhóm tác chiến tàu sân bay Gerald R. Ford. Sự tăng cường lực lượng này, cùng với các cuộc tập kích “xuồng ma túy” trong khu vực, đã gia tăng áp lực lên chính quyền Maduro.

Tổng thống Maduro tháng trước đã mô tả động thái tập hợp lực lượng của Mỹ tại vùng Caribe là “mối đe dọa lớn nhất” đối với Venezuela trong vòng 100 năm qua. Ông tuyên bố nước này đã sẵn sàng để “đấu tranh vũ trang nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia” và ra lệnh huy động quân đội chính quy cùng lực lượng dự bị.

Tuy nhiên, lựa chọn gây sức ép của Mỹ có thể không đạt hiệu quả như mong đợi, khi Tổng thống Maduro đã ra lệnh điều động một lượng lớn quân nhân và khí tài tiến hành diễn tập để đáp trả việc Mỹ tăng cường hiện diện quân sự tại biển Caribe.

Trong bối cảnh đó, theo ông Mora, nếu ông Trump không tiến hành các biện pháp quyết liệt hơn, lời đe dọa của ông sẽ bị coi là vô nghĩa và thiếu sức nặng. Washington có thể sẽ lựa chọn tiến hành các đòn không kích hạn chế, có độ chính xác cao vào các mục tiêu ở Venezuela.

Mục đích của cuộc tấn công như vậy là thuyết phục chính phủ Maduro thay đổi hành vi, nhưng nó cũng có thể gây ra hỗn loạn ở Venezuela và tiềm ẩn nguy cơ gây ra những biến động chính trị lớn mà Mỹ không thể kiểm soát.

Lựa chọn cuối cùng của chính quyền Trump là tiến hành một cuộc tấn công toàn diện trên bộ, kiểm soát lãnh thổ Venezuela và thiết lập một chính phủ mới bằng biện pháp quân sự.

Tuy nhiên, giới quan sát cảnh báo rằng đây là một lựa chọn tốn kém cả về nhân lực và tài chính, không có căn cứ về luật pháp quốc tế khi Mỹ can thiệp quân sự vào một quốc gia có chủ quyền với những lý do mơ hồ. Hơn nữa, quân đội Mỹ sẽ phải đối đầu với khoảng 123.000 binh sĩ chính quy của Venezuela, cùng với hơn 8 triệu dân quân tình nguyện, theo tuyên bố của Tổng thống Maduro.

Ngay cả khi giành được thắng lợi quân sự, lực lượng Mỹ sẽ phải ở lại Venezuela cho đến khi thiết lập lại ổn định và xây dựng được một chính phủ đủ khả năng lãnh đạo đất nước. Điều này được cho là vô cùng khó khăn, vì bất kỳ chiến dịch tấn công nào từ bên ngoài cũng có thể châm ngòi phản ứng dữ dội từ dư luận Venezuela.

Tàu sân bay USS Gerald R. Ford tại khu vực eo biển Gibraltar ngày 1/10. Ảnh: US Navy
USS Gerald R. Ford tại eo biển Gibraltar (Ảnh: US Navy). Ảnh: Internet

Edmundo Gonzalez, một chính trị gia đối lập ở Venezuela, tuyên bố đã chuẩn bị “kế hoạch 100 giờ” để tiếp quản chính quyền một khi Mỹ can thiệp. Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định rằng họ khó có thể duy trì quyền lực nếu không có sự hỗ trợ liên tục từ Mỹ, thậm chí cần cả sự hiện diện quân sự.

Để phe đối lập có thể thực sự nắm quyền, Mỹ cũng sẽ phải hỗ trợ sâu rộng hơn, từ tái cấu trúc quân đội, giải ngân tài sản quốc gia, đến đào tạo lực lượng cảnh sát. Ông Mora nhận định: “Nếu Mỹ can thiệp mạnh vào chính phủ Venezuela, họ sẽ phải chịu trách nhiệm tái thiết. Điều đó có thể mất thời gian dài.”

Một nhà ngoại giao khu vực giấu tên cảnh báo rằng “việc sử dụng vũ lực không thể dựa trên tầm nhìn ngắn hạn. Nó phải đi kèm một giải pháp chính trị với sự hỗ trợ của Mỹ trong 5-10 năm tới.”

Bên cạnh những thách thức này, việc can thiệp quân sự vào Venezuela còn kéo theo những vấn đề khác. Theo giới quan sát, nó sẽ khiến Mỹ phải chuyển hướng trọng tâm và sức mạnh khỏi những vấn đề an ninh quan trọng hơn, đồng thời đặt thêm gánh nặng không cần thiết đối với quân đội.

Ngân sách quốc phòng Mỹ có lẽ chỉ tăng nhẹ trong năm tới, nhưng Lầu Năm Góc phải quản lý hoạt động trên nhiều khu vực, từ Iraq, Syria, đến Tây Phi và Thái Bình Dương. Đặc biệt, tại Trung Đông, nếu Iran nhận thấy Mỹ phải dồn lực cho chiến dịch ở Nam Mỹ, họ có thể tiến hành các hoạt động đe dọa lợi ích của Washington ở khu vực.

Các chuyên gia cảnh báo rằng nếu cảm thấy bị đe dọa, chính quyền Maduro cũng có thể nhắm vào các lợi ích của Mỹ trong khu vực trước khi bị tấn công.

Henry Ziemer, chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Mỹ, cho biết: “Họ có thể tấn công các tài sản mà Mỹ coi trọng, như giàn khoan dầu ở biển Caribe. Đây có thể là canh bạc mà ông ấy sẵn sàng chấp nhận.”

Ông Mora cảnh báo rằng hoạt động quân sự của Mỹ còn có thể làm gián đoạn ngành công nghiệp dầu mỏ Venezuela, từ đó làm tăng giá dầu toàn cầu và làm suy yếu chính phủ của các nước vốn phụ thuộc vào năng lượng ở châu Phi và Caribe.

Cuối cùng, một cuộc can thiệp quân sự có thể khiến Mỹ đánh mất ảnh hưởng ở Tây bán cầu. Colombia, Peru và một số quốc gia trong khu vực đã lên án việc Mỹ cân nhắc lựa chọn quân sự đối với Venezuela. Nếu Mỹ thực sự tiến hành, phản ứng sẽ dữ dội hơn nhiều, ngay từ chính các đối tác thân cận hàng đầu của Washington trong khu vực.

Ông Mora cho rằng: “Washington sẽ đánh mất thiện chí của họ và cùng với đó là mất cơ hội hợp tác về những vấn đề quan trọng như đối phó tội phạm xuyên quốc gia hay kết nối hạ tầng năng lượng của châu Mỹ.”

Các nhà phân tích cho rằng Mỹ nên cân nhắc các lựa chọn khác để giải quyết vấn đề Venezuela, thay vì can thiệp quân sự, chẳng hạn như một lệnh trừng phạt đa phương với sự phối hợp của các chính phủ châu Âu và Mỹ Latinh. Đây cũng sẽ là cách mà các đối tác của Mỹ ở Tây Bán cầu có thể tán thành.

Tuy nhiên, chính quyền Trump hiện tại vẫn nhấn mạnh rằng chiến dịch chỉ có mục tiêu chống ma túy, chứ không phải nhằm vào chính phủ của ông Maduro. Khi được hỏi liệu Mỹ có thể bước vào cuộc chiến với Venezuela hay không, ông Trump từng trả lời một cách mơ hồ rằng “Tôi nghi ngờ điều đó. Tôi không nghĩ vậy.”

Admin


Nguồn: VnExpress

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *